教學品者,導以所行,釋己愚闇,得見道明。
Đại ý của phẩm Giáo Học là dẫn đạo hành vi, buông bỏ ngu si mê ám của mình để thấy đạo sáng.
Nghĩa | Nguyên văn và phiên âm |
1. Ôi,[1] người tu hành sao ngủ vùi hệt như loài ong, ốc, trai, mọt vậy vùi lấp trong bất tịnh mà mê muội trau tria thân. 2. Tâm trí hôn muội, thống khổ như trúng trọng thương; đang trong vòng ách nạn bủa vây mà mê ngủ thì được gì? 3. Hãy tỉnh giác chớ phóng dật, phải biết thương người mà học từ bi nhân nghĩa, ai làm được như vậy thì sẽ không còn ưu phiền. 4. Ai thường quán sát tâm hành sinh diệt, ai tinh tiến tu học và vun đắp chính kiến, người ấy là ánh sáng soi dẫn thế gian, chỗ người ấy sinh ra là nguồn phước lành, người ấy quyết không rơi vào nẻo ác. 5. Chớ học theo đạo nhỏ, chớ để lòng tin theo tà kiến, chớ nhiễm theo đường phóng đãng để rồi tà dục tăng trưởng; hãy khôn khéo tu lấy pháp lành, chớ phạm giới của người tu học, biết hành đạo ngay lành thì không còn khổ não, đời đời được yên ổn. 6. Tỉnh giác phòng hộ thân, luôn luôn giữ gìn tâm ý và lời nói, đó là đường tới nơi bất tử, chư hành vắng lặng thì sẽ được yên ổn. 7. Chớ theo bàng môn tả đạo, hãy tìm đến tu tập chính pháp; giáo pháp đã lĩnh thụ hãy ghi nhớ, làm được vậy thì không còn xa cảnh giới viên mãn thanh tịnh là bao. 8. Quán sát kĩ hàm nghĩa của chính pháp sẽ có ích cho sự nghiệp tu thân dưỡng tính của ngươi, ngươi sẽ an vui tìm thấy đường trí tuệ, nhờ tinh tiến và cần mẫn trên đường chính pháp, ngươi sẽ đạt được tâm tự tại viên mãn, ấy mới chính là lối chân tu của bậc duệ trí hiền minh. 9. Có người khởi tâm niệm truy cầu giải thoát phiền não, phát khởi ý chí tu tập diệt khổ kiên định, nhưng nếu giam hãm mình trong ý niệm giải thoát phiền não và diệt khổ, khiến cho mình giam hãm trong mê hoặc chấp ngã rồi sinh ra buông lung thì kì thật đối với sự nghiệp giác ngộ tự tại không có ích gì. 10. Noi theo hướng tu tập [duệ trí để thu nhiếp và hàng phục tham dục] ấy sẽ khiến ngươi thành một hành giả kiên cường, noi theo hướng tu học [để phát triển trí tuệ] ấy sự nghiệp tâm linh ngươi sẽ vào đường trung đạo, cho nên ngươi cần theo phương pháp tu tập giác độ ấy mà liễu giải pháp nghĩa, ngươi cũng thường nên sách tấn bản thân tinh cần thủ trì giáo pháp ấy. 11. Tu học trước hết phải cắt đứt dây mẹ [luyến ái], thống lĩnh vua [tâm ý] và quần thần của nó, làm tê liệt những kẻ tùy tùng nó, như thế mới là người đạt đạo. 12. Tu học mà không có người bằng mình, không có bạn lành, thì thà ở một mình giữ thiện chí, còn hơn làm bạn với người ngu. 13. Hãy vui vẻ giữ giới và hành đạo, có bạn thì được ích gì? Hãy thực hành đạo lành một mình, ngươi sẽ thảnh thơi không ưu phiền như con voi đi giữa rừng xanh. 14. Tu đạo đức và học tri thức nên chọn đường nào? Hãy làm cho nhân cách xứng với tri thức, hãy xét kĩ rồi hãy tu hành. 15. Tu học trước hết phải giữ giới, mọi cử động thân tâm đều phải an trụ nơi giới luật, hãy rộng lượng bố thí chứ đừng thu gom, hãy tận lực hành đạo chớ ham ngủ nghỉ. 16. Sống trăm năm mà theo đường tà vạy, tâm chí bất thiện chẳng bằng sống một ngày mà tinh tiến thọ chánh pháp. 17. Sống trăm năm mà thờ lửa và tu dị thuật chẳng bằng giữ giới trong giây lát, người nào giữ giới được dù chỉ là khoảnh khắc cũng được hưởng phúc lành. 18. Người nào có sức hãy làm những điều mình nói, không có sức thì chớ nói hão; hư ngụy và thiếu thành tín, những điều ấy bậc trí giả gạt bỏ đi. 19. Người tu học trước hết phải cầu giải thoát, phải quán sát để biện biệt thị phi, phải trực nhận được chân lí rồi mới giáo hóa kẻ khác, làm được như thế mới khai sáng được trí tuệ và không trở lại đường mê hoặc cũ. 20. Mang áo bị, búi tóc mà học theo tà đạo, mặc áo rơm mà trong lòng chứa đầy tham trọc, người tu kiểu ấy thì tối tăm mù mịt không nhận thức được chân lí, hệt như người điếc dỏng tai nghe ngũ âm. 21. Người tu phải lìa bỏ được ba đường ác như lấy thuốc mà tiêu trừ các loại độc, người khang kiện thoát ra khỏi dòng sinh tử, quyết không quay trở lại như rắn đã cởi bỏ lớp da cũ. 22. Người tu học mà đa văn và trì giới không vi phạm thì hai đời được vinh dự, sở nguyện của người ấy sẽ thành tựu; tu học mà ít học, trì giới lơ là thì hai đời phải chịu thống khổ và đánh mất dần bổn nguyện của mình. 23. Người tu học có hai điều phải ghi nhớ: thứ nhất là thường gần gũi người đa văn, thứ hai là quán sát kĩ mọi lẽ để thấu đạt chân lí; làm được như vậy thì tuy lâm vào cảnh cùng khốn cũng không rơi vào tà đạo. 24. Cỏ trấu hại lúa, đa dục hại chí tu hành, vân trừ hết những điều cấu ác thì thành tựu tất nhiều. 25. Nghĩ kĩ rồi mới nói, từ tốn chớ hung hăng, thuyết pháp và giải kinh nghĩa như thế lời nói mới không lầm lỗi. 26. Tu đường lành không sai phạm, lòng quy phục pháp và hiểu được tính đố kị của chúng sinh, người nào hiểu được, biết được những điều vi diệu như thế và tự răn mình thì sau không rơi vào đường tai hoạn. 27. Vượt thoát khỏi nhị kiến tội phúc và chuyên tâm tu phạm hạnh, nhiếp phục được thân tâm, như thế mới gọi là người tu giỏi. | 1. 咄哉!何為寐? 螉螺蚌蠹類, 隱弊以不淨, 迷惑計為身。 Đốt tai! Hà vi mị? Ông loa bạng đố loại, ẩn tế dĩ bất tịnh, mê hoặc kế vi thân. 2. 焉有被斫創, 心如嬰疾痛, 遘于眾厄難, 而反為用眠? Yên hữu bị chước sang, tâm như anh tật thống, cấu vu chúng ách nạn, nhi phản vi dụng miên? 3. 思而不放逸, 為仁學仁跡, 從是無有憂, 常念自滅意。 Tư nhi bất phóng dật, vi nhân học nhân tích, tòng thị vô hữu ưu, thường niệm tự diệt ý. 4. 正見學務增, 是為世間明, 所生福千倍, 終不墮惡道。 Chính kiến học vụ tăng, thị vi thế gian minh, sở sinh phúc thiên bội, chúng bất đọa ác đạo. 5. 莫學小道, 以信邪見, 莫習放蕩, 令增欲意; 善修法行, 學誦莫犯, 行道無憂, 世世常安。 Mạc học tiểu đạo, dĩ tín tà kiến, mạc tập phóng đãng, lệnh tăng dục ý; thiện tu pháp hạnh, học tụng mạc phạm, hành đạo vô ưu, thế thế thường an. 6. 敏學攝身, 常慎思言, 是到不死, 行滅得安。 Mẫn học nhiếp thân, thường thận tư ngôn, thị đáo bất tử, hành diệt đắc an. 7. 非務勿學, 是務宜行, 已知可念, 則漏得滅。 Phi vụ vật học, thị vụ nghi hành, dĩ tri khả niệm, tắc lậu đắc diệt. 8. 見法利身, 夫到善方, 知利健行, 是謂賢明。 Kiến pháp lợi thân, phù đáo thiện phương, tri lợi kiện hành, thị vị hiền minh. 9. 起覺義者, 學滅以固, 著滅自恣, 損而不興。 Khởi giác nghĩa giả, học diệt dĩ cố, trước diệt tự tứ, tổn nhi bất hưng. 10. 是向以強, 是學得中, 從是解義, 宜憶念行。 Thị hướng dĩ cường, thị học đắc trung, tòng thị giải nghĩa, nghi ức niệm hành. 11. 學先斷母, 率君二臣, 廢諸營從, 是上道人。 Học tiên đoạn mẫu, súy quân nhị thần, phế chư doanh tòng, thị thượng đạo nhân. 12. 學無朋類, 不得善友, 寧獨守善, 不與愚偕。 Học vô bằng loại, bất đắc thiện hữu, ninh độc thủ thiện, bất dữ ngu giai. 13. 樂戒學行, 奚用伴為? 獨善無憂, 如空野象。 Lạc giới học hạnh, hề dụng bạn vi? Độc thiện vô ưu, như không dã tượng. 14. 戒聞俱善, 二者孰賢? 方戒稱聞, 宜諦學行。 Giới văn câu thiện, nhị giả thục hiền? Phương giới xưng văn, nghi đế học hạnh. Học tiên hộ giới, khai tài tất cố, thí nhi vô thụ, ... hành vật ngọa. 16. 若人壽百歲, 邪學志不善, 不如生一日, 精進受正法。 Nhược nhân thọ bách tuế, tà học chí bất thiện, bất như sinh nhất nhật, tinh tiến thụ chính pháp. 17. 若人壽百歲, 奉火修異術, 不如須臾頃, 事戒者福稱。 Nhược nhân thọ bách tuế, phụng hỏa tu dị thuật, bất như tu du khoảnh, sự giới giả phúc xưng. 18. 能行說之可, 不能勿空語, 虛偽無誠信, 智者所屏棄。 Năng hành thuyết chi khả, bất năng vật không ngữ, hư ngụy vô thành tín, trí giả sở bình khí. 19. 學當先求解, 觀察別是非, 受諦應誨彼, 慧然不復惑。 Học đương tiên cầu giải, quán sát biệt thị phi, thụ đế ứng hối bỉ, tuệ nhiên bất phục hoặc. 20. 被髮學邪道, 草衣內貪濁, 曚曚不識真, 如聾聽五音。 Bị phát học tà đạo, thảo y nội tham trọc, mông mông bất thức chân, như lung thính ngũ âm. 21. 學能捨三惡, 以藥消眾毒, 健夫度生死, 如蛇脫故皮。 Học năng xả tam ác, dĩ dược tiêu chúng độc, kiện phu độ sinh tử, như xà thoát cố bì. 22. 學而多聞、 持戒不失, 兩世見譽, 所願者得; 學而寡聞、 持戒不完, 兩世受痛, 喪其本願。 Học nhi đa văn, trì giới bất thất, lưỡng thế kiến dự, sở nguyện giả đắc; học nhi quả văn, trì giới bất hoàn, lưỡng thế thụ thống, táng kì bổn nguyện. 23. 夫學有二: 常親多聞、 安諦解義, 雖困不邪。 Phù học hữu nhị: thường thân đa văn, an đế giải nghĩa, tuy khốn bất tà. Đề bại hại hòa, đa dục phương học, vân trừ chúng ác, thành thu tất đa. 25. 慮而後言, 辭不強梁, 法說義說, 言而莫違。 Lự nhi hậu ngôn, từ bất cường lương, pháp thuyết nghĩa thuyết, ngôn nhi mạc vi. 26. 善學無犯, 畏法曉忌, 見微知者, 誡無後患。 Thiện học vô phạm, úy pháp hiểu kị, kiến vi tri giả, giới vô hậu hoạn. 27. 遠捨罪福, 務成梵行, 終身自攝, 是名善學。 Viễn xả tội phúc, vụ thành phạm hạnh, chung thân tự nhiếp thị danh thiện học.
|
Comments
Post a Comment