Skip to main content

Phẩm II - Giáo Học (教學)

教學品者,導以所行,釋己愚闇,得見道明。

Đại ý của phẩm Giáo Học là dẫn đạo hành vi, buông bỏ ngu si mê ám của mình để thấy đạo sáng.

Nghĩa

Nguyên văn và phiên âm

1. Ôi,[1] người tu hành sao ngủ vùi hệt như loài ong, ốc, trai, mọt vậy vùi lấp trong bất tịnh mà mê muội trau tria thân.

2. Tâm trí hôn muội, thống khổ như trúng trọng thương; đang trong vòng ách nạn bủa vây mà mê ngủ thì được gì?

3. Hãy tỉnh giác chớ phóng dật, phải biết thương người mà học từ bi nhân nghĩa, ai làm được như vậy thì sẽ không còn ưu phiền.

4. Ai thường quán sát tâm hành sinh diệt, ai tinh tiến tu học và vun đắp chính kiến, người ấy là ánh sáng soi dẫn thế gian, chỗ người ấy sinh ra là nguồn phước lành, người ấy quyết không rơi vào nẻo ác.

5. Chớ học theo đạo nhỏ, chớ để lòng tin theo tà kiến, chớ nhiễm theo đường phóng đãng để rồi tà dục tăng trưởng; hãy khôn khéo tu lấy pháp lành, chớ phạm giới của người tu học, biết hành đạo ngay lành thì không còn khổ não, đời đời được yên ổn.

6. Tỉnh giác phòng hộ thân, luôn luôn giữ gìn tâm ý và lời nói, đó là đường tới nơi bất tử, chư hành vắng lặng thì sẽ được yên ổn.

7. Chớ theo bàng môn tả đạo, hãy tìm đến tu tập chính pháp; giáo pháp đã lĩnh thụ hãy ghi nhớ, làm được vậy thì không còn xa cảnh giới viên mãn thanh tịnh là bao.

8. Quán sát kĩ hàm nghĩa của chính pháp sẽ có ích cho sự nghiệp tu thân dưỡng tính của ngươi, ngươi sẽ an vui tìm thấy đường trí tuệ, nhờ tinh tiến và cần mẫn trên đường chính pháp, ngươi sẽ đạt được tâm tự tại viên mãn, ấy mới chính là lối chân tu của bậc duệ trí hiền minh.

9. Có người khởi tâm niệm truy cầu giải thoát phiền não, phát khởi ý chí tu tập diệt khổ kiên định, nhưng nếu giam hãm mình trong ý niệm giải thoát phiền não và diệt khổ, khiến cho mình giam hãm trong mê hoặc chấp ngã rồi sinh ra buông lung thì kì thật đối với sự nghiệp giác ngộ tự tại không có ích gì.

10. Noi theo hướng tu tập [duệ trí để thu nhiếp và hàng phục tham dục] ấy sẽ khiến ngươi thành một hành giả kiên cường, noi theo hướng tu học [để phát triển trí tuệ] ấy sự nghiệp tâm linh ngươi sẽ vào đường trung đạo, cho nên ngươi cần theo phương pháp tu tập giác độ ấy mà liễu giải pháp nghĩa, ngươi cũng thường nên sách tấn bản thân tinh cần thủ trì giáo pháp ấy.

11. Tu học trước hết phải cắt đứt dây mẹ [luyến ái], thống lĩnh vua [tâm ý] và quần thần của nó, làm tê liệt những kẻ tùy tùng nó, như thế mới là người đạt đạo.

12. Tu học mà không có người bằng mình, không có bạn lành, thì thà ở một mình giữ thiện chí, còn hơn làm bạn với người ngu.

13. Hãy vui vẻ giữ giới và hành đạo, có bạn thì được ích gì? Hãy thực hành đạo lành một mình, ngươi sẽ thảnh thơi không ưu phiền như con voi đi giữa rừng xanh.

14. Tu đạo đức và học tri thức nên chọn đường nào? Hãy làm cho nhân cách xứng với tri thức, hãy xét kĩ rồi hãy tu hành.

15. Tu học trước hết phải giữ giới, mọi cử động thân tâm đều phải an trụ nơi giới luật, hãy rộng lượng bố thí chứ đừng thu gom, hãy tận lực hành đạo chớ ham ngủ nghỉ.

16. Sống trăm năm mà theo đường tà vạy, tâm chí bất thiện chẳng bằng sống một ngày mà tinh tiến thọ chánh pháp.

17. Sống trăm năm mà thờ lửa và tu dị thuật chẳng bằng giữ giới trong giây lát, người nào giữ giới được dù chỉ là khoảnh khắc cũng được hưởng phúc lành.

18. Người nào có sức hãy làm những điều mình nói, không có sức thì chớ nói hão; hư ngụy và thiếu thành tín, những điều ấy bậc trí giả gạt bỏ đi.

19. Người tu học trước hết phải cầu giải thoát, phải quán sát để biện biệt thị phi, phải trực nhận được chân lí rồi mới giáo hóa kẻ khác, làm được như thế mới khai sáng được trí tuệ và không trở lại đường mê hoặc cũ.

20. Mang áo bị, búi tóc mà học theo tà đạo, mặc áo rơm mà trong lòng chứa đầy tham trọc, người tu kiểu ấy thì tối tăm mù mịt không nhận thức được chân lí, hệt như người điếc dỏng tai nghe ngũ âm.

21. Người tu phải lìa bỏ được ba đường ác như lấy thuốc mà tiêu trừ các loại độc, người khang kiện thoát ra khỏi dòng sinh tử, quyết không quay trở lại như rắn đã cởi bỏ lớp da cũ.

22. Người tu học mà đa văn và trì giới không vi phạm thì hai đời được vinh dự, sở nguyện của người ấy sẽ thành tựu; tu học mà ít học, trì giới lơ là thì hai đời phải chịu thống khổ và đánh mất dần bổn nguyện của mình.

23. Người tu học có hai điều phải ghi nhớ: thứ nhất là thường gần gũi người đa văn, thứ hai là quán sát kĩ mọi lẽ để thấu đạt chân lí; làm được như vậy thì tuy lâm vào cảnh cùng khốn cũng không rơi vào tà đạo.

24. Cỏ trấu hại lúa, đa dục hại chí tu hành, vân trừ hết những điều cấu ác thì thành tựu tất nhiều.

25. Nghĩ kĩ rồi mới nói, từ tốn chớ hung hăng, thuyết pháp và giải kinh nghĩa như thế lời nói mới không lầm lỗi.

26. Tu đường lành không sai phạm, lòng quy phục pháp và hiểu được tính đố kị của chúng sinh, người nào hiểu được, biết được những điều vi diệu như thế và tự răn mình thì sau không rơi vào đường tai hoạn.

27. Vượt thoát khỏi nhị kiến tội phúc và chuyên tâm tu phạm hạnh, nhiếp phục được thân tâm, như thế mới gọi là người tu giỏi.

1. 咄哉!何為寐?  螉螺蚌蠹類,

 隱弊以不淨,  迷惑計為身。

Đốt tai! Hà vi mị? Ông loa bạng đố loại, ẩn tế dĩ bất tịnh, mê hoặc kế vi thân.

2. 有被斫創,  心如嬰疾痛,

 遘于眾厄難,  而反為用眠?

Yên hữu bị chước sang, tâm như anh tật thống, cấu vu chúng ách nạn, nhi phản vi dụng miên?

3. 思而不放逸,  為仁學仁跡,

 從是無有憂,  常念自滅意。

Tư nhi bất phóng dật, vi nhân học nhân tích, tòng thị vô hữu ưu, thường niệm tự diệt ý.

4. 正見學務增,  是為世間明,

 所生福千倍,  終不墮惡道。

Chính kiến học vụ tăng, thị vi thế gian minh, sở sinh phúc thiên bội, chúng bất đọa ác đạo.

5. 莫學小道,  以信邪見,  

莫習放蕩, 令增欲意;  

善修法行,  學誦莫犯,

 行道無憂,  世世常安。 

Mạc học tiểu đạo, dĩ tín tà kiến, mạc tập phóng đãng, lệnh tăng dục ý; thiện tu pháp hạnh, học tụng mạc phạm, hành đạo vô ưu, thế thế thường an.

6. 敏學攝身, 常慎思言,  是到不死,  行滅得安。

Mẫn học nhiếp thân, thường thận tư ngôn, thị đáo bất tử, hành diệt đắc an.

7. 非務勿學,  是務宜行,  已知可念, 則漏得滅。 

Phi vụ vật học, thị vụ nghi hành, dĩ tri khả niệm, tắc lậu đắc diệt.

8. 見法利身,  夫到善方,

 知利健行,  是謂賢明。 

Kiến pháp lợi thân, phù đáo thiện phương, tri lợi kiện hành, thị vị hiền minh.

9. 起覺義者, 學滅以固,  著滅自恣,  損而不興。

Khởi giác nghĩa giả, học diệt dĩ cố, trước diệt tự tứ, tổn nhi bất hưng.

10. 是向以強,  是學得中,  從是解義, 宜憶念行。 

Thị hướng dĩ cường, thị học đắc trung, tòng thị giải nghĩa, nghi ức niệm hành.

11. 學先斷母,  率君二臣,

 廢諸營從,  是上道人。 

Học tiên đoạn mẫu, súy quân nhị thần, phế chư doanh tòng, thị thượng đạo nhân.

12. 學無朋類, 不得善友,  寧獨守善,  不與愚

Học vô bằng loại, bất đắc thiện hữu, ninh độc thủ thiện, bất dữ ngu giai.

13.  樂戒學行,  奚用伴為?  獨善無憂, 如空野象。 

Lạc giới học hạnh, hề dụng bạn vi? Độc thiện vô ưu, như không dã tượng.

14. 戒聞俱善,  二者孰賢?

 方戒稱聞,  宜諦學行。 

Giới văn câu thiện, nhị giả thục hiền? Phương giới xưng văn, nghi đế học hạnh.

15. 學先護戒, 開閉必固,  施而無受,  行勿臥

Học tiên hộ giới, khai tài tất cố, thí nhi vô thụ, ... hành vật ngọa.

16.  若人壽百歲,  邪學志不善,

 不如生一日,  精進受正法。

Nhược nhân thọ bách tuế, tà học chí bất thiện, bất như sinh nhất nhật, tinh tiến thụ chính pháp.

17. 若人壽百歲,  奉火修異術,

 不如須臾,  事戒者福稱。

Nhược nhân thọ bách tuế, phụng hỏa tu dị thuật, bất như tu du khoảnh, sự giới giả phúc xưng.

18.  能行說之可,  不能勿空語,

 虛偽無誠信,  智者所屏棄。

Năng hành thuyết chi khả, bất năng vật không ngữ, hư ngụy vô thành tín, trí giả sở bình khí.

19.  學當先求解,  觀察別是非,

 受諦應誨彼,  慧然不復惑。

Học đương tiên cầu giải, quán sát biệt thị phi, thụ đế ứng hối bỉ, tuệ nhiên bất phục hoặc.

20.  被髮學邪道,  草衣內貪濁,

 曚曚不識真,  如聾聽五音。

Bị phát học tà đạo, thảo y nội tham trọc, mông mông bất thức chân, như lung thính ngũ âm.

21.  學能捨三惡,  以藥消眾毒,

 健夫度生死,  如蛇脫故皮。

Học năng xả tam ác, dĩ dược tiêu chúng độc, kiện phu độ sinh tử, như xà thoát cố bì.

22. 學而多聞、  持戒不失,  兩世見譽, 所願者得;  學而寡聞、  持戒不完, 兩世受痛,  喪其本願。 

Học nhi đa văn, trì giới bất thất, lưỡng thế kiến dự, sở nguyện giả đắc; học nhi quả văn, trì giới bất hoàn, lưỡng thế thụ thống, táng kì bổn nguyện.

23. 夫學有二: 常親多聞、  安諦解義,  雖困不邪。

Phù học hữu nhị: thường thân đa văn, an đế giải nghĩa, tuy khốn bất tà.

24.  稊稗害禾,  多欲妨學,  耘除眾惡, 成收必多。 

Đề bại hại hòa, đa dục phương học, vân trừ chúng ác, thành thu tất đa.

25. 慮而後言,  辭不強梁,

 法說義說,  言而莫違

Lự nhi hậu ngôn, từ bất cường lương, pháp thuyết nghĩa thuyết, ngôn nhi mạc vi.

26.  善學無犯, 畏法曉忌,  見微知者,  誡無後患。

Thiện học vô phạm, úy pháp hiểu kị, kiến vi tri giả, giới vô hậu hoạn.

27.  遠捨罪福,  務成梵行,  終身自攝, 是名善學。

Viễn xả tội phúc, vụ thành phạm hạnh, chung thân tự nhiếp thị danh thiện học.



[1] Xem phẩm Dục Lạc, Pali văn, 212.

Comments

Popular Posts

41. Nhị Quỷ Tranh Bửu Bối (Bách Dụ Kinh)

Bách Dụ Kinh, Dụ thứ 41 Xưa có hai con quỷ đói chung nhau một cái rương nhỏ, một cây gậy và một chiếc guốc. Chúng nảy ra tranh chấp, con nào cũng muốn được ý mình, cãi cọ kịch liệt hết ngày mà không phân xử được. Lúc ấy có người đi tới thấy vậy hỏi, ‘Cái rương, cây gậy và chiếc guốc có chi kì dị mà chúng mày tranh chấp ghê vậy?’ Quỷ đáp, ‘Cái rương này của bọn tao có thể xuất ra đủ thứ, áo quần, ăn uống, giường đệm, ngọa cụ; hết thảy những thứ vật dụng hàng ngày đều từ nó mà ra. Cầm cây gậy này thì oán địch sẽ quy phục, không dám tranh với mình nữa. Mang chiếc guốc này thì có thể khiến người ta bay đi không quái ngại.’ Người ấy nghe thế liền bảo hai con quỷ, ‘Hai đứa bây tránh ra một chút, để tao chia đều cho.’ Bọn quỷ nghe nói vậy liền tránh ra xa. Người ấy ngay tức khắc ôm rương, chụp lấy gậy và xỏ guốc bay mất, hai con quỷ ngơ ngác, tranh nhau cuối cùng không được chi. Người kia nói với quỷ ‘Những thứ bọn bây tranh nhau ta lấy đi hết rồi, bây giờ không có chi phải tranh đoạt nhau nữ...

55. Xá-lợi-phất Đi Thăm Phật Duy-vệ

Dụ 55. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔佛遣舍利弗,西至維衛莊嚴剎土,問訊彼佛三事:「佛身安隱不?說法如常不?受者增進不?」舍利弗即承佛威神往詣彼剎,宣令如是。彼佛報言:「皆悉安隱。」於時彼佛轉阿惟越致輪,為七住菩薩說法,舍利弗聞之,從彼剎還,姿色光明行步勝常。佛告舍利弗:「汝到彼,何故侅步怡悅如是。」舍利弗白佛言:「譬如貧家飢凍之人得大珍寶如須彌山,寧歡喜不?」佛言:「甚善!」舍利弗言:「我到彼剎,得聞彼佛說阿惟越致深奧之事,是以欣踊不能自勝。」佛言:「善哉!如汝所言。」佛語舍利弗:「譬如長者大迦羅越,純以紫磨金、摩尼珠為寶,內有掃除銅鐵鉛錫 棄在於外糞壤之中,有貧匱者喜得持歸,言我大得迦羅越寶,寧是長者珍妙寶非?」答言:「非也。」佛語舍利弗:「汝所聞得,如是貧者,彼佛所說但十住事及在舉中清淨之者 ,汝所聞者不足言耳。」舍利弗即愁毒,如言我謂得寶,反是鉛錫。舍利弗說是事時,無央數人皆發無上平等度意,無央數人得阿惟顏住也。 Âm  Tích Phật khiển Xá-lợi-phất, tây chí Duy-vệ trang nghiêm sát thổ, vấn tấn bỉ Phật tam sự, ‘Phật thân an ẩn bất? Thuyết pháp như thường bất? Thụ giả tăng tiến bất?’ Xá-lợi-phất tức thừa Phật uy thần vãng nghệ bỉ sát, tuyên lệnh như thị. Bỉ Phật báo ngôn giai tất an ẩn. Ư thời bỉ Phật chuyển a-duy-việt-trí luân, vi thất trụ bồ-tát thuyết pháp, Xá-lợi-phất văn chi, tòng bỉ sát hoàn, tư sắc quang minh hành bộ thắng thường. Phật cáo Xá-lợi-phất, ‘Nhữ đáo bỉ, hà cố ? bộ di duyệt như thị?’ Xá-lợi-phất bạch Phật ngôn, ‘Thí như bần gia cơ đống chi nhân đắc đại trân...

82. Phật Nói Cho Chúng Tì-khâu Biết Tai Hoạn Của Lợi Dưỡng

Truyện 82. Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 7  Lúc đó Như Lai ở nước Xá-vệ, chán lợi dưỡng. Có một khu rừng sâu tên là Tham Trang Nghiêm, Ngài tránh nạn lợi dưỡng nên đi vào rừng ấy. Trong rừng có chùa, có vị la-hán tên Na-dặc-ca làm tự chủ. Phật tới rừng ấy thì hôm sau nhiều người đem áo tới cúng dường, chật cả khu rừng. Phật nói: “Ta không dùng lợi dưỡng, nhưng lợi dưỡng thường theo ta.” Có một vạn hai ngàn tì-khâu cũng tới chỗ đó. Phật nói chư tì-khâu: “Lợi dưỡng là thứ đại tai hại, thường gây chướng nạn, tới cả la-hán cũng bị lợi dưỡng gây chướng nạn.” Tì-khâu hỏi: “Gây những chướng nạn chi?” Phật đáp: “Lợi dưỡng có những cái hại sau: phá bì, phá nhục, phá cốt, phá tuỷ. Phá như thế nào? Phá da trì giới, thịt thiền định, xương trí tuệ, và tủy thiện tâm vi diệu.” Chư tì-khâu một vạn hai ngàn người đều gom tam y lục vật hành a-luyện-nhã, không lấy thêm vật chi khác. Phật liền tán thán: “Thiện tai, thiện tai! Biết hành trì phép a-luyện-nhã. Phép này của ta là phép thiểu dục, chẳng phải đa d...

49. Vua Biết Đầu Mình Dơ Duốc

Dụ 13. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔有國王,行常過佛為作禮,不避泥雨。傍臣患之,自相與語:「王作意何以煩碎乃爾?」王耳聞之,王還宮勅臣下行求百獸頭及人頭一枚來。臣下白王言已具.王令於市賣之,皆售,人頭不售。臣下白言:「賣百獸頭皆售,此人頭臭爛初無買者。」王語傍臣:「汝曹不解耳祕。前者過佛所,為佛作禮,汝曹言:『王意煩碎。』欲知我頭者,如此死人頭,不潔淨,當以求福可得上天,汝曹愚癡不知,反言煩乎?」傍臣言:「實如大王所說。」叩頭謝過。臣等愚不及王。後復出,臣等皆下馬為佛作禮,以王為法也。 âm Tích hữu quốc vương, hành thường quá Phật vi tác lễ, bất tị nê vũ, bàng thần hoạn chi, tự tương dữ ngữ, vương tác ý hà dĩ phiền toái nãi nhĩ. Vương nhĩ văn chi, vương hoàn cung sắc thần hạ hành cầu bách thú đầu cập nhân đầu nhất mai lai. Thần hạ bạch vương ngôn dĩ cụ, vương lệnh ư thị mại chi. Giai thụ, nhân đầu bất thụ.’ Thần hạ bạch ngôn, ‘Mại bách thú đầu giai thụ, thử nhân đầu xú lạn sơ vô mãi giả.’ Vương ngữ bàng thần, ‘Nhữ tào bất giải nhĩ bí. Tiền giả quá Phật sở, vi Phật tác lễ, nhữ tào ngôn vương ý phiền toái. Dục tri ngã đầu giả như thử tử nhân đầu bất khiết tịnh, đương dĩ cầu phúc khả đắc thượng thiên, nhữ tào ngu si bất tri, phản ngôn phiền hồ?’ Bàng thần ngôn, ‘Thật như đại vương sở thuyết.’ Khấu đầu tạ quá, ‘thần ...