Skip to main content

Posts

Showing posts from November, 2022

26. Phật Cứu A-nan Khỏi Tay Mẹ Con Nhà Ma Thuật

Dụ 26. Tạp Thí Dụ Kinh Hôm đó A-nan vô thành khất thực, cùng lúc có người nữ con nhà ma thuật đi lấy nước. Cô gái thấy A-nan mặt mày khôi ngô trong lòng nảy sinh tình ý. Về nhà thưa mẹ: ‘Ngoài kia có đồ đệ của Cù Đàm, mẹ bắt về cho con đi.’ Người mẹ gọi lũ quỷ lâu nay phụng sự lên, kêu đi mê hoặc A-nan. A-nan lạc vào nhà kia lúc nào không hay. Người mẹ có ma thuật ấy nói A-nan: ‘Nay đem con gái gả cho chú, không được ra khỏi đây đa.’ A-nan đáp: ‘Tôi không theo ý bà được.’ Bà già có ma thuật ấy hóa hiện ra một cái hố lửa, dọa A-nan: ‘Muốn bị lửa thiêu hay muốn lấy con gái ta?’ A-nan sợ hết hồn. Lúc ấy Phật từ xa thõng tay tới xoa đầu A-nan. Lũ quỷ của nhà ma thuật thấy tay Phật từ trong không trung thõng xuống, uy thần vô lượng, thì xô nhau chạy tán loạn, va trúng bà già bùa phép khiến bà rớt xuống hố lửa. Thân thể bà bị cháy bỏng, nhưng may thoát chết. A-nan về lại chỗ Phật liền.  Sau hôm đó bà già ma thuật kêu lũ quỷ lại trách cứ: “Bọn bay không làm cho đệ tử ông Cù-đàm mê hoặc được t

25. Bồ-tát Thị Hiện Thụ Sắc Dục Giáo Hóa Chúng Sanh T0205

Dụ 25. Tạp Thí Dụ Kinh T0205 Xưa ở ngoại quốc có người trồng nhiều cỏ bông trắng, quá mùa chưa thu hoạch nên úa sắc mất đẹp. Cấp thời thuê nhiều người làm sáng tối liên tục không nghỉ. Chủ nhân thấy người làm vất vả nên sai nấu canh thịt ngon đãi một bữa thịnh soạn. Lúc canh gần chín mùi thơm lan khắp bốn phía thì có một con chim chí (?鵄) già trên không trung bay ngang qua, móng nó quắp đồ dơ để rớt trúng ngay nồi canh. Người đầu bếp thấy thế định vớt ra nhưng đồ dơ tan mau vào canh. Người đầu bếp nghĩ bụng, ‘Nếu mà nấu lại thì trời đã tối, nếu đem cho người ta ăn thì canh có đồ bất tịnh.’ Nghĩ rằng chỉ một ít đồ dơ thôi không đủ làm hỏng vị canh, có thể đem cho người ăn. Còn mình thì không chịu ăn. Thực khách đều tới ngồi vào múc canh, thấy đầu bếp cũng đã đói mà mình thì ăn canh của đầu bếp nên họ kêu đầu bếp ra vớt thịt ngon mà ăn. Người đầu bếp biết canh bất tịnh, nhưng sợ mất lòng nên gượng nuốt chứ không thấy ngon.  Phật lấy chuyện này làm thí dụ cho chúng sanh trong tam giới tho

24. Em Nhỏ Đại Bố Thí Đắc Phúc Lớn T0205

Dụ 24. Tạp Thí Dụ Kinh T0205 Xưa dân trong thành Vương Xá rất sung túc, chín giai cấp ở cách biệt nhau, không tạp thác, có riêng một ấp gọi là Nhất Ức, chỉ nhà nào của cải một ức trở lên mới được vào ở. Lúc ấy có một cư sĩ dự trù vào ấp đó ở nên bôn ba làm ăn, lao thân khổ tứ. Tiết dụng và nhiều nghề trong mấy chục năm chỉ tích được chín mươi vạn, sắp đủ một ức thì lâm trọng bệnh. Biết mình không cứu được, có một đứa con trai bảy tám tuổi, nên phó chúc vợ rằng, ‘Con trai ta lớn lên thì giao phó tài vật cho nó rộng đường làm ăn, đủ một ức thì vào đó mà sống, đây là tâm nguyện một đời ta!’ Nói xong thì mất.  Người vợ tống táng xong thì dắt con về cho xem tài vật, ‘Cha con có di nguyện, đợi con lớn khi nào đủ mười vạn là một ức thì vào ấp Nhất Ức ở.’ Đứa con bảo mẹ, ‘Cần chi phải đợi tới lớn? Giao ngay cho con, mẹ con mình sẽ vô đó ở mau thôi.’ Người mẹ liền giao gia sản lại cho con. Đứa nhỏ lấy tài vật trân bảo cung dường tam bảo, bố thí cho kẻ thiếu thốn, trong vòng nửa năm của cải hết

23. Xin Lửa Nhà Không Có Ai Chết

Dụ 23. Tạp Thí Dụ Kinh T0205 昔有老母唯有一子,得病命終,載著塚間停尸哀慼不能自勝,念曰:「正有一子當以備老,而捨我死,吾用活為?」遂不復歸,便欲併命一處,不飯不食已四五日。佛以知見,將五百比丘詣塚間。老母遙見佛來,威神之光奕奕 ,寤醉醒,前趣佛作禮却住。佛告母:「何為塚間耶?」白言:「世尊!唯有一子捨我終亡,愛之情切,欲共死在一處。」佛告老母:「欲令子活不耶?」母喜:「實爾。世尊!」佛言:「索好香火來,吾當呪願,令子更生。」重告老母:「宜得不死家火。」於是老母便行索火,見人先問:「汝家前後頗有死者未?」答曰:「言先祖以來皆死過去。」所問之家辭皆如是,以經數十家不敢取火,便還佛所,白言:「世尊!遍行求火,無有不死家,是以空還。」佛告老母:「天地開闢以來,無生不終之者,生者求活亦復可憙,母何迷索隨子死?」意便解寤,識無常理。佛因為廣說法要,老母即得須陀洹道;塚間觀者無數千人,皆發無上正真道意。 Âm  Tích hữu lão mẫu duy hữu nhất tử, đắc bệnh mệnh chung, tải trứ trủng gian đình thi ai thích bất năng tự thắng, niệm viết, ‘Chánh hữu nhất tử đương dĩ bị lão, nhi xá ngã tử, ngô dụng hoạt vi?’ Toại bất phục quy, tiện dục bính mệnh nhất xứ, bất phạn bất thực dĩ tứ ngũ nhật. Phật dĩ trí kiến, tương ngũ bách tì-khâu nghệ trủng gian. Lão mẫu diêu kiến Phật lai, uy thần chi quang dịch dịch, ngụ túy tỉnh, tiền thú Phật tác lễ tức trụ. Phật cáo mẫu hà vi trủng gian da. Bạch ngôn, ‘Thế tôn, duy hữu nhất tử xá ngã chung vong, ái chi tình thiết, dục cộng tử tại nhất xứ.’ Phật cáo lão

22. Ngu Nhân Vô Sở Tri Thậm Khổ T0205

Dụ 22. Tạp Thí Dụ Kinh  Xưa ngoại quốc có một ngôi chùa, thường có trên một trăm tăng sĩ tá túc và tu học. Có một vị ưu-bà-di tinh tấn và thông hiểu kinh giáo, ở cách chùa không xa, mỗi ngày cúng dường một sa-môn, chúng tăng lần lượt thay nhau thọ thực, từ người đầu tới người cuối, hết vòng thì quay lại từ đầu. Những người đi thọ thực thì ưu-bà-di đều theo hỏi han kinh nghĩa, những vị thiển học hay tránh mặt, đi mà không vui. Có một sa-môn tên Ma-ha-lô, lớn tuổi mới xuất gia, nhất vô sở tri, tới phiên mình đi thọ thực, bước đi lững thững, tới không kịp thời. Ưu-bà-di gặp trên đường nói trưởng lão túc niên ấy bước chân thong thả, cho là đại trí tuệ, sẽ tăng ích đạo pháp cho mình, làm cơm ngon thết đãi. Thí thực xong mời lên cao tòa thuyết pháp, thượng tọa đạo nhân thật vô sở tri, cứ tình trạng của mình mà nói, ‘Người ngu vô trí thật khổ.’ Ưu-bà-di nghe và duy lời ấy, ‘Ngu vô sở tri, đó là cội rễ của thập nhị nhân duyên. Vì đó mà sanh tử bất tuyệt, đưa tới nhiều khổ não, cho nên nói thậm

21. Trí Giả Không Bao Giờ Chán Phúc Báo Tam Bảo T0205

Dụ 21. Tạp Thí Dụ Kinh T0205 Văn 昔佛在天王釋,數下供養三尊,唯摩訶迦葉獨不肯受。何以故?本願但欲度貧窮人故。於是天帝作權方便,夫人俱下作貧家公嫗,弊草屋下。時摩訶迦葉入城分衛,天帝公嫗迎為作禮,自說:「寒貧,願受麤食。」迦葉可之。反迦葉鉢盛滿甘露,使形色麤惡,其實而百味。方舉宮香甘非常,即三昧觀乃知天帝。迦葉言:「卿之福祚巍巍乃爾,何以故不厭足耶?」天帝報言:「三尊福報甚豐無量,是以智者未常厭足也!」 Âm Tích Phật tại, thiên vương Thích số hạ cung dưỡng tam tôn, duy Ma-ha Ca-diếp độc bất khẳng thụ. Hà dĩ cố, bổn nguyện đãn dục độ bần cùng nhân cố. Ư thị thiên đế tác quyền phương tiện, phu nhân câu hạ tác bần gia công ẩu, tệ thảo ốc hạ. Thời Ma-ha Ca-diếp nhập thành phân-vệ, thiên đế công ẩu nghênh vi tác lễ, tự thuyết, ‘Hàn bần, nguyện thụ thô thực.’ Ca-diếp khả chi, phản Ca-diếp bát thịnh mãn cam lộ, sử hình sắc thô ác, kì thật nhi bách vị. Phương cử cung hương cam phi thường, tức tam muội quan nãi tri thiên đế. Ca-diếp ngôn, ‘Khanh chi phúc tộ nguy nguy nãi nhĩ, hà dĩ cố bất yếm túc da?’ Thiên đế báo ngôn, ‘Tam tôn phúc báo thậm phong vô lượng, thị dĩ trí giả vị thường yếm túc dã!’ Nghĩa Xưa Phật còn tại thế, vua trời Đế Thích nhiều lần xuống hạ giới cung dưỡng tam

20. Em Nhỏ Bị Bỏ Rơi Mà Đắc Đạo T0205

Dụ 20. Tạp Thí Dụ Kinh T0205 Xưa có một vị Già-la-việt giàu có có hai người con trai, người cha ấy bị bệnh lâm tử, phó chúc người con lớn rằng, ‘Em con còn nhỏ chưa biết chi, nay phó lại hết cho con, khéo làm ăn mà nuôi em, chớ để em cơ hàn.’ Cha con buồn bã từ biệt rồi người cha qua đời. Về sau vợ người anh bảo chồng, ‘Em trai anh từ nhỏ tới giờ chỉ gây khó cho nhà anh, toàn bộ tài vật nó chia cho nó hết, lợi dụng nó chưa lớn sao không vứt bỏ đi?’ Người anh ban đầu không chịu, nói mãi không thôi thì nghe theo. Dắt người em ra khỏi thành tới chỗ vực sâu, trói vào một cây bách, không nhẫn tâm xuống tay giết em nên để cho hổ sói và ác quỷ hại. Nói em rằng, ‘Mày nhiều lần làm khổ tao, để mày lại đây cho mày ăn năn tội. Mai sẽ quay lại đón.’ Rồi bỏ mà đi. Chẳng mấy chốc trời tối, diều cáo ở đó tru tréo, người em rất hoảng sợ không có ai kêu cứu, bèn ngưỡng lên trời than van, ‘Trong ba cõi có ai nhân từ cho quay về với? Hôm nay khốn ách sợ hãi vô cùng.’  Lúc ấy Như Lai thấy em cầu cứu, tọa

19. Bốn Vị Cư Sĩ Công Đức Thù Thắng T0205

Dụ 19. Tạp Thí Dụ Kinh T0205 Xưa nước Thiên Trúc có một ngôi chùa, chùa có bốn đạo nhân đều đã đắc lục thông. Trong nước có bốn cư sĩ, mỗi người thỉnh một đạo nhân để cung dưỡng lâu dài. Bốn vị đạo nhân đi giáo hóa, một người lên chỗ thiên đế Thích; một người xuống chỗ long vương ngoài biển; một người lên chỗ kim sí điểu; một người tới cung quốc vương. Bốn vị đạo nhân ấy mỗi khi thụ cung dưỡng nếu trong bát còn đồ ăn thì chia lại cho đàn-việt của mình ăn, cơm dư ấy có bách vị chưa từng nếm qua, mỗi vị đàn-việt hỏi đạo nhân cơm đó lấy ở đâu ra. Đạo nhân kể rõ ngọn ngành cho các vị đàn-việt. Thế là bốn vị cư sĩ mỗi vị đều phát một tâm nguyện riêng. Một người nguyện sanh lên cung trời đế thích. Một người muốn sanh về biển làm rồng; một người muốn sanh vào cõi kim sí điểu; một người muốn sanh vào cung vua làm thái tử. Thọ tận bốn vị ấy đều vãng sanh thành tứ thần vương.  Cùng lúc khởi niệm muốn thọ bát quan trai, quán khắp các tĩnh xứ thì chỉ có hậu viên của vua nước Ma-kiệt là tịch mịch.

18. Lấy Văn Vật Quốc Dụ Cho Tát-vân-nặc Thù Thắng

Dụ 18. Tạp Thí Dụ Kinh T0205 Xưa nước Ba-lợi-phất so những nước khác phong thịnh phát đạt hơn cả. Chân nhân, thần nhân giáng lâm không ngớt, cửu phẩm đều đầy đủ đạo đức, tiên kinh với tục thư cũng tha hồ, vàng bạc, ngũ cốc, gấm lụa không chi không có. Phật mỗi khi nhắc nước ấy đều xưng là văn vật quốc. Lúc ấy chín mươi sáu chủng ngoại đạo bàn với nhau rằng, ‘Phật nói nước ấy không chi không có, chúng ta phải qua nước ấy đòi thứ nó không có, lấy đó bẻ Phật, khiến cho ông ta mất chí thành, bọn ta chắc chắn được người tôn kính.’ Phạm-chí luận rằng, ‘Chưa từng nghe nước ấy có quỷ la-sát, cứ đòi quỷ chắc chắn tìm không ra, như thế đủ nêu rõ Phật chứng đạo chưa tới nơi!’ Rảo khắp phố chợ đòi mua quỷ mà không đâu có, phạm-chí mừng cho là thượng sách. Thiên đế biết điệp kế của phạm-chí, bèn xuống trần hóa thành khách buôn, ngồi trước một hàng quán như đang bán hàng. Phạm-chí lần lượt rảo qua các cửa hàng, tới trước mặt hóa nhân ấy, hỏi ‘Có quỷ bán không?’ Thiên đế đáp, ‘Có, muốn mua quỷ mấy đầ

17. Xá-lợi-phất Độ Trưởng Giả Bủn Xỉn T0205

Dụ 17. Tạp Thí Dụ Kinh  Xưa thành Xá-vệ có một phạm-chí hào quý, tài phú vô số, uyên bác minh tuệ, nhưng đọa tà kiến không tin lẽ thiện, cho là vô ích! Lúc ấy Xá-lợi-phất dùng đạo nhãn quán thấy trưởng giả ấy đầy đủ đại phúc nên được hào phú, thấy chỉ hưởng thôi mà không tạo mới thì sẽ quay lại tam đồ, nên tới độ ông ấy. Bèn hiện thần túc ra trước mặt ông ấy đứng bưng bát. Vị phạm-chí vừa mới vào bàn ăn, thấy Xá-lợi-phất thì rất tức giận, kêu môn gia dùng tay đánh đập, xong quay lại chỗ ngồi tiếp tục ăn, không mời ngồi cũng không đuổi đi, ăn xong rửa tay súc miệng, ngậm một ngụm nước nhổ vào bát Xá-lợi-phất mà nói rằng, ‘Bưng đi đi, bố thí cho đấy.’ Xá-lợi-phất đáp, ‘Chúc ông trưởng giả  thụ phúc vô lượng.’ Rồi quay về.  Trưởng giả kinh hoảng, chạy đi kêu người sai tìm Xá-lợi-phất. Xá-lợi-phất đi thẳng về tinh xá, lấy nước ấy hòa với bùn, đắp lên chỗ Phật hay đi kinh hành. Bạch Phật rằng, ‘Người kia keo kiệt, thí cho một ngụm nước, đệ tử vừa dùng đắp chỗ Phật kinh hành, nguyện Phật kin

16. Công Dụng Thù Thắng Của Ngũ Giới Thập Thiện (T0205)

Dụ 16. Tạp Thí Dụ Kinh    Xưa có một nước trù phú dân đông. Nước bên muốn tới chiếm nên hưng binh kéo sang. Trong nước đã biết nên đại phát binh, mười lăm tuổi trở lên sáu mươi tuổi trở xuống đều phải chinh hành. Bấy giờ có một người làm nghề dệt len, tuổi gần sáu mươi, vợ đẹp nhưng hay khinh mạn chồng, chỉ đòi chồng kính mến và phụng sự mình, chồng nói vợ rằng, ‘Nay đáp lời hiệu triệu, tự chuẩn bị binh trượng, tư lương và dụng vật. Mong cho kịp thời ứng quân lệnh.’ Vợ trao cho chồng một khí cụ to năm thăng dùng để chứa lương thực, một cái trục trữ dệt vải, và một cây gậy dài, và dặn, ‘Ông mang mấy cái này đi đánh giặc, nhà không còn thứ chi ngoài những thứ này, nếu để hư khí cụ này, để mất cây trữ này thì sẽ không cùng ông làm gia thất nữa.’  Thế là chồng từ biệt ra đi, trong lòng không nghĩ tới những mối khốc hại của việc binh đao mà chỉ sợ hư mất hai thứ kia mất lòng vợ thôi. Trên đường gặp giặc giao chiến, quân mình không mạnh bằng phải thoái lui, hai thứ trên áo nếu bị hư hoại sẽ

15. Đắc Thần Thông Chưa Phải Là Cứu Cánh (T0205)

Dụ 15. Tạp Thí Dụ Kinh T0205 Xưa nước Kế-tân có một tì-khâu, giáo huấn môn đồ lên tới mấy trăm người, trong đám ấy có người đắc tứ thiền, có người đắc ngũ thông, có người đắc tu-đà-hoàn, có người đắc a-la-hán. Bấy giờ có một người nước An-tức tới Kế-tân thấy tì-khâu ấy giáo hóa như vậy thì sinh tín lạc tâm, xin làm đệ tử. Không lâu thì đắc ngũ thông, bèn hiện thần túc trước mặt chúng nhân. Sư cáo người ấy rằng, ‘Con tuy đắc ngũ thông, tâm vẫn còn trói buộc chưa giải thoát, chớ hiện thần túc lấy đó cống cao tự mãn!’ Trong lòng tức giận cho thầy mình đố kị, tự nhủ, ‘Về quê hiện đạo đức thôi!’ Nghĩ vậy rồi bay về bổn quốc, tới trước vương điện An-tức hiện thần túc bay đi. Vua tác lễ người ấy rồi hỏi, ‘Đạo nhân là người nước nào?’ Tì-khâu đáp, ‘Tôi người của vương quốc này, sang Kế-tân học đạo, nay trở về là vì muốn hành phúc cho quê hương báo ân sinh dưỡng.’ Vua đại hoan hỉ liền quỳ rập xuống bạch, ‘Nguyện đạo nhân từ hôm nay ở lại cung cho trẫm cung dưỡng.’ Tì-khâu liền đồng ý. Vua đích

55. Xá-lợi-phất Đi Thăm Phật Duy-vệ

Dụ 55. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔佛遣舍利弗,西至維衛莊嚴剎土,問訊彼佛三事:「佛身安隱不?說法如常不?受者增進不?」舍利弗即承佛威神往詣彼剎,宣令如是。彼佛報言:「皆悉安隱。」於時彼佛轉阿惟越致輪,為七住菩薩說法,舍利弗聞之,從彼剎還,姿色光明行步勝常。佛告舍利弗:「汝到彼,何故侅步怡悅如是。」舍利弗白佛言:「譬如貧家飢凍之人得大珍寶如須彌山,寧歡喜不?」佛言:「甚善!」舍利弗言:「我到彼剎,得聞彼佛說阿惟越致深奧之事,是以欣踊不能自勝。」佛言:「善哉!如汝所言。」佛語舍利弗:「譬如長者大迦羅越,純以紫磨金、摩尼珠為寶,內有掃除銅鐵鉛錫 棄在於外糞壤之中,有貧匱者喜得持歸,言我大得迦羅越寶,寧是長者珍妙寶非?」答言:「非也。」佛語舍利弗:「汝所聞得,如是貧者,彼佛所說但十住事及在舉中清淨之者 ,汝所聞者不足言耳。」舍利弗即愁毒,如言我謂得寶,反是鉛錫。舍利弗說是事時,無央數人皆發無上平等度意,無央數人得阿惟顏住也。 Âm  Tích Phật khiển Xá-lợi-phất, tây chí Duy-vệ trang nghiêm sát thổ, vấn tấn bỉ Phật tam sự, ‘Phật thân an ẩn bất? Thuyết pháp như thường bất? Thụ giả tăng tiến bất?’ Xá-lợi-phất tức thừa Phật uy thần vãng nghệ bỉ sát, tuyên lệnh như thị. Bỉ Phật báo ngôn giai tất an ẩn. Ư thời bỉ Phật chuyển a-duy-việt-trí luân, vi thất trụ bồ-tát thuyết pháp, Xá-lợi-phất văn chi, tòng bỉ sát hoàn, tư sắc quang minh hành bộ thắng thường. Phật cáo Xá-lợi-phất, ‘Nhữ đáo bỉ, hà cố ? bộ di duyệt như thị?’ Xá-lợi-phất bạch Phật ngôn, ‘Thí như bần gia cơ đống chi nhân đắc đại trân bảo

54. Cảnh Ngộ Sáu Người Bạn Chung Một Nồi Trong Địa Ngục

Dụ 54. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔有六人為伴,俱墮地獄中,同在一釜中,皆欲說本罪。一人言沙,二人言那,三人言特,四人言涉,五人言姑,六人言陀羅。佛見之笑,目揵連問佛:「何以故笑?」佛言:「有六人為伴,俱墮地獄中,共在一釜中,各欲說本罪,湯沸涌躍不能得再語,各一語便迴下。一人言沙者,世間六十億萬歲,在泥犁中為一日,何時當竟?第二人言那者,無有期,亦不知何時當得脫?第三人言特者,咄咄當用治生為?如是不能自制意,奪五家分供養三尊,愚貪無足,今悔何益?四人言涉者,言治生亦不至誠,我財產屬他人,或為得苦痛。第五人言姑者,誰當保我從地獄中出,便不復犯道禁,得生天人樂者。第六人言陀羅者,是事上頭本不為心計,譬如御車失道入邪道,折車軸,悔無所復及也。」 Âm Tích hữu lục nhân vi bạn, câu đọa địa ngục trung, đồng tại nhất phủ trung, giai dục thuyết bổn tội. Nhất nhân ngôn sa, nhị nhân ngôn na, tam nhân ngôn đặc, tứ nhân ngôn thiệp, ngũ nhân ngôn cô, lục nhân ngôn đà-la. Phật kiến chi tiếu, Mục-kiền-liên vấn Phật, hà dĩ cố tiếu. Phật ngôn, ‘Hữu lục nhân vi bạn, câu đọa địa ngục trung, cộng tại nhất phủ trung, các dục thuyết bổn tội, thang phí dũng dược bất năng đắc tái ngứ, các nhất ngứ tiện hồi hạ. Nhất nhân ngôn sa giả, thế gian lục thập ức vạn tuế, tại nê lê trung vi nhất nhật, hà thì đương cánh? Đệ nhị nhân ngôn na giả, vô hữu kì, diệc bất tri hà thì đương đắc thoát? Đệ tam nhân ngôn đặc giả, đốt đốt đư

53. Sa-môn Không Được Để Lộ Thân

Dụ 53. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔沙門於山中行道,裏衣解墮地,便左右顧視,徐牽衣衣之。山神出,謂道人:「此間亦無人民,衣墮地,何為匍匐著衣?」沙門言:「山神見我,我亦復自見上日月諸天見我,於義不可身露?無有慙愧,非佛弟子也。」 Âm Tích sa-môn ư san trung hành đạo, lí y giải đọa địa, tiện tả hữu cố thị, từ khiên y y chi. San thần xuất, vị đạo nhân, ‘Thử gian diệc vô nhân dân, y đọa địa, hà vi bồ bặc trước y?’ Sa-môn ngôn, ‘San thần kiến ngã, ngã diệc phục tự kiến thượng nhật nguyệt chư thiên kiến ngã, ư nghĩa bất khả thân lộ. Vô hữu tàm quý, phi phật đệ tử dã.’ Nghĩa Xưa có sa-môn hành đạo trong núi, áo lót tuột xuống đất bèn nhìn xem hai bên, thong thả kéo áo mặc lại. San thần hiện ra hỏi đạo nhân, ‘Nơi này không có người, áo tuột xuống vì sao phải vội vàng mặc lại?’ Sa-môn đáp, ‘San thần thấy tôi, tôi lại tự thấy mình, ở trên kia nhật nguyệt và chư thiên cũng thấy tôi. Theo giới nghĩa không được lộ thân. Không biết xấu hổ thì không phải đệ tử Phật.’ 舊雜譬喻經 https://tripitaka.cbeta.org

52. Không Đầu Không Thân Không Tay Chân

Dụ 52. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔外國有沙門,於山中行道,有鬼變化作無頭人,來到沙門前,報言:「無頭痛之患,目所以視色,耳以聽聲,鼻以知香,口以受味,了無頭,何一快乎?」鬼復沒去復化無身,但有手足,沙門言:「無身者不知痛痒 ,無五藏,了不知病,何一快乎?」鬼復沒去,更作無手足人,從一面車轉輪來至沙門,道人言:「大快!無有手足,不能行取他財物,何其快哉?」鬼言:「沙門守一心不動。」鬼便化作端正男子來頭面著道人足言:「道人持意堅乃如是,今道人所學但成不久。」頭面著足恭敬而去也。 Âm  Tích ngoại quốc hữu sa-môn, ư san trung hành đạo, hữu quỷ biến hóa tác vô đầu nhân lai đáo sa-môn tiền. Báo ngôn, ‘Vô đầu thống chi hoạn, mục sở dĩ thị sắc, nhĩ dĩ thính thanh, tị dĩ tri hương, khẩu dĩ thụ vị, liễu vô đầu, hà nhất khoái hồ?’ Quỷ phục một khứ phục hóa vô thân, đãn hữu thủ túc, sa-môn ngôn, ‘Vô thân giả bất tri thống dương, vô ngũ tạng, liễu bất tri bệnh, hà nhất khoái hồ?’ Quỷ phục một khứ, canh tác vô thủ túc nhân, tòng nhất diện xa chuyển luân lai chí sa-môn, đạo nhân ngôn, ‘Đại khoái. Vô hữu thủ túc, bất năng hành thủ tha tài vật, hà kì khoái tai?’ Quỷ ngôn, ‘Sa-môn thủ nhất tâm bất động.’ Quỷ tiện hóa tác đoan chánh nam tử lai đầu diện trứ đạo nhân túc ngôn, ‘Đạo nhân trì ý kiên nãi như thị, kim đạo nhân sở học

50. Chỉ Có Lên Chứ Không Xuống

Dụ 50. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔有國王出遊,每見沙門輒下車為沙門作禮,道人言:「大王止,不得下車。」王言:「我上不下也。所以言上不下者,今我為道人作禮,壽終已後當生天上,是故言上耳不下也。」 âm Tích hữu quốc vương xuất du, mỗi kiến sa-môn triếp hạ xa vi sa-môn tác lễ, đạo nhân ngôn, ‘Đại vương chỉ, bất đắc hạ xa.’ Vương ngôn, ‘Ngã thượng bất hạ dã. sở dĩ ngôn thượng bất hạ giả, kim ngã vi đạo nhân tác lễ, thọ chung dĩ hậu đương sanh thiên thượng, thị cố ngôn thượng nhĩ bất hạ dã.’  Nghĩa Xưa có quốc vương ra ngoài du hành, mỗi lần thấy sa-môn là xuống xe tác lễ sa-môn. Sa-môn đạo nhân bảo, ‘Đại vương dừng xe là được rồi, không cần phải xuống xe.’ Vua đáp, ‘Trẫm lên chứ đâu có xuống. Sở dĩ nói lên chứ không phải xuống là vì nay trẫm tác lễ đạo nhân, sau khi thọ chung sẽ sinh lên trên trời. Vì vậy mà nói lên chứ không phải xuống.’ 舊雜譬喻經 https://tripitaka.cbeta.org

49. Vua Biết Đầu Mình Dơ Duốc

Dụ 13. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔有國王,行常過佛為作禮,不避泥雨。傍臣患之,自相與語:「王作意何以煩碎乃爾?」王耳聞之,王還宮勅臣下行求百獸頭及人頭一枚來。臣下白王言已具.王令於市賣之,皆售,人頭不售。臣下白言:「賣百獸頭皆售,此人頭臭爛初無買者。」王語傍臣:「汝曹不解耳祕。前者過佛所,為佛作禮,汝曹言:『王意煩碎。』欲知我頭者,如此死人頭,不潔淨,當以求福可得上天,汝曹愚癡不知,反言煩乎?」傍臣言:「實如大王所說。」叩頭謝過。臣等愚不及王。後復出,臣等皆下馬為佛作禮,以王為法也。 âm Tích hữu quốc vương, hành thường quá phật vi tác lễ, bất tị nê vũ, bàng thần hoạn chi, tự tương dữ ngữ, vương tác ý hà dĩ phiền toái nãi nhĩ. Vương nhĩ văn chi, vương hoàn cung sắc thần hạ, ‘Hành cầu bách thú đầu cập nhân đầu nhất mai lai.’ Thần hạ bạch vương ngôn, ‘Dĩ cụ vương lệnh, ư thị mại chi giai thụ, nhân đầu bất thụ.’ Thần hạ bạch ngôn, ‘Mại bách thú đầu giai thụ, thử nhân đầu xú lạn sơ vô mãi giả.’ Vương ngứ bàng thần, ‘Nhữ tào bất giải nhĩ. Bí tiền giả quá phật sở, vi phật tác lễ, nhữ tào ngôn, vương ý phiền toái. Dục tri ngã đầu giả như thử, tử nhân đầu bất khiết tịnh, đương dĩ cầu phúc khả đắc thượng thiên, nhữ tào ngu si bất tri, phản ngôn phiền hồ?’ Bàng thần ngôn, ‘Thật như đại vương sở thuyết.’ Khấu đầu tạ quá,

48. Nhất Tâm Định Ý Tiêu Trừ Tà Độc

Dụ 48. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh 夫人有一心定意,無所不消也。Phù nhân hữu nhất tâm định ý, vô sở bất tiêu dã. văn 昔有國王大好道德,常行繞塔百匝未竟,邊國王來攻欲奪其國,傍臣大恐怖,即行白王言:「有兵來至。唯大王置斯旋塔,還為權慮以攘重寇。」王言:「聽使兵來,我終不止。」心意如故,繞塔未竟兵散罷去。夫人有一心定意,無所不消也。 Âm  Tích hữu quốc vương đại hảo đạo đức, thường hành nhiễu tháp bách táp vị cánh, biên quốc vương lai công dục đoạt kì quốc, bàng thần đại khủng bố, tức hành bạch vương ngôn, ‘Hữu binh lai chí. Duy đại vương trí tư toàn tháp, hoàn vi quyền lự dĩ nhương trọng khấu.’ Vương ngôn, ‘Thính sử binh lai, ngã chung bất chỉ.’ Tâm ý như cố, nhiễu tháp vị cánh binh tán bãi khứ. Phù nhân hữu nhất tâm định ý, vô sở bất tiêu dã.  nghĩa  Xưa có quốc vương rất ngưỡng mộ Phật pháp, thường đi nhiễu tháp cả trăm vòng. Chưa xong thì vua lân quốc sang đánh đòi chiếm giang san. Bề tôi rất sợ nên tới báo vua có ngoại binh kéo tới. ‘Mong đại vương bỏ nhiễu tháp đi, quay về ban kế sách đối phó giặc dữ.’ Vua đáp, ‘Cứ để bọn nó đến. Trẫm quyết không dừng lại.’ Nhờ trì tâm như vậy mà nhiễu tháp chưa xong thì binh gi

47. Vua Làm Sa-môn Kêu Sướng - Cựu Tạp Thí Dụ Kinh

Dụ 47. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh 昔有國王棄國行作沙門,於山中精思,草茅為屋蓬蒿為席,自謂得志,大笑言快哉!邊道人問之:「卿快樂,今獨坐山中學道,將有何樂耶?」沙門言:「我作王時所憂念多,或恐鄰王奪我國,恐人劫取我財物,或恐我為人所貪利,常畏臣下利我財寶反逆無時。今我作沙門,人無貪利我者,快不可言,以是故言快耳。」 Âm Tích hữu quốc vương khí quốc hành tác sa-môn, ư san trung tinh tư, thảo mao vi ốc bồng hao vi tịch, tự vị đắc chí, đại tiếu ngôn khoái tai ! B iên đạo nhân vấn chi, ‘Khanh khoái lạc, kim độc tọa san trung học đạo, tương hữu hà lạc da?’ Sa-môn ngôn, ‘Ngã tác vương thì sở ưu niệm đa, hoặc khủng lân vương đoạt ngã quốc, khủng nhân kiếp thủ ngã tài vật, hoặc khủng ngã vi nhân sở tham lợi, thường úy thần hạ lợi ngã tài bảo phản nghịch vô thời. Kim ngã tác sa-môn, nhân vô tham lợi ngã giả, khoái bất khả ngôn, dĩ thị cố ngôn khoái nhĩ.’ Nghĩa Xưa có quốc vương bỏ nước đi làm sa-môn, ở tro ng núi tư duy kĩ , cỏ tranh làm ốc cỏ cói làm chiếu , lấy làm đắc chí, phá lên cười rằng ‘Sướng quá, sướng quá!’ Đạo nhân đồng tu hỏi , ‘Ông thật khoái lạc, nay ngồi một mình trong núi học đạo, có chi mà vui thế ?’ Sa-môn đáp, ‘

45. Phạm-chí Với Tứ Thú

Dụ 13. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔有梵志年百二十,少小不妻娶,無淫泆之情,處深山無人之處,以茅為廬蓬蒿為席,以水果蓏為食飯,不積財寶。國王娉之不往,意靜處無為。於山中數千餘歲,日與禽獸相娛樂,有四獸:一名狐,二名獼猴,三者獺,四者兔。此四獸日於道人所聽經說戒,如是積久,食諸果蓏皆悉訖盡。後道人意欲使 徙 去,此四獸大愁憂不樂,共議言:「我曹各行求索,供養道人。」獼猴去至他山中,取甘果來以上道人,願心莫去。狐亦復行化作人,求食得一囊飯 麨 [1] 來,以上道人,可給一月糧,願止留。獺亦復入水取大魚來,以上道人,給一月糧,願莫去也。兔自思念:「我當用何等供養道人耶?」自念:「當持身供養耳。」便行取樵以然火作炭,往白道人言:「今我為兔最小薄,能請入火中作炙,以身上道人,可給一日糧。」兔便自投火中,火為不然。道人見兔,感其仁義,傷哀之則自止留。佛言:「時梵志者提和竭佛是,時兔者我身是,獼猴者舍利弗是,狐者阿難是,獺者目揵連是也。」 Â m Tích hữu phạm-chí niên bách nhị thập , thiế u tiểu bất thê thú , vô dâm dật chi tình , xử thâm san vô nhân chi xứ , dĩ mao vi lư bồng hao vi tịch , dĩ thủy quả lỏa vi thực phạn , bất tích tài bảo . Q uốc vương phinh chi bất vãng , ý tĩnh xử vô vi . Ư san trung số thiên dư tuế , nhật dữ cầm thú tương ngu lạc , hữu tứ thú : nhất danh hồ , nhị danh mi hầu , tam giả thát , tứ giả thỏ . T hử tứ thú nhật ư đạo nhân sở thính kinh thuyết giới , như thị tích cửu , thực chư quả lỏa giai tất cật tận . H ậu đạo nhân ý dục sử tỉ khứ ,  thử tứ thú đại sầu

44. Uy Đức Trí Tuệ Của Đệ Tử Phật

Dụ 44. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh 海中有大龍,龍欲雨閻浮利地,恐地無當此水者。龍意念:「地無當我雨者,還自海中雨耳。」佛慧弟子威德甚大,欲以施外行九十六種道家,恐無能堪者,是故佛弟子展轉自相惠耳,譬如龍自還雨海中也。 Âm Hải trung hữu đại long , long dục vũ Diêm -phù- lợi địa , khủng địa vô đương thử thủy giả . L ong ý niệm , ‘ Đ ịa vô đương ngã vũ giả , hoàn tự hải trung vũ nhĩ .’ P hật tuệ đệ tử uy đức thậm đại , dục dĩ thi ngoại hành cửu thập lục chủng đạo gia , khủng vô năng kham giả , thị cố Phật đệ tử triển chuyển tự tương huệ nhĩ , thí như long tự hoàn vũ hải trung dã . Nghĩa Biển có đại long, long muốn làm mưa xuống cõi Diêm -phù- lợi nhưng sợ cõi đất đó không ai đương nổi mưa của mình. Long tâm niệm, ‘Cõi lục địa không ai đương nổi mưa của mình, phải về lại biển mà làm mưa vậy.’ Hàng đệ tử trí tuệ của Phật uy đức rất lớn, muốn ra ngoài thi triển trí tuệ hàng phục chín mươi sáu loại ngoại đạo nhưng sợ không ai kham nổi, vì vậy mà đệ tử Phật dần dần quay về huệ thí cho nhau, giống như long tự quay về biển làm mưa vậy. 舊雜譬喻經 https://tripitaka.cbeta.org