Skip to main content

Phẩm IX. Song Yếu (雙要品)

雙要品者,兩兩相明,善惡有對,舉義不單。

Song yếu phẩm giả, lưỡng lưỡng tương minh, thiện ác hữu đối, phụng nghĩa bất đơn.

Đại ý của phẩm Song Yếu là từng cặp pháp cú làm rõ nhau, thiện ác đối nhau, nêu rõ nghĩa lí bằng hình thức song đối. Phẩm này ứng với phẩm thứ X trong Kinh Pháp Cú Thí Dụ và có 22 kệ.

Nghĩa

Kinh văn và phiên âm

1. Tâm là gốc mọi pháp, tâm làm chủ, tâm sai khiến, trong tâm niệm ác mà nói hoặc làm, thì tội và khổ theo sau, như bánh xe lăn theo rãnh xe chạy.

2. Tâm là gốc mọi pháp, tâm làm chủ, tâm sai khiến, trong tâm niệm thiện mà nói hoặc làm thì phúc và an lạc theo sau, như ảnh theo hình.

3. Lấy tâm ý tà loạn dẫn dắt hành vi, hun đúc ngu si và sống trong u minh, tự đại không phép tắc, thì làm sao hiểu được lời ngay lành?

4. Lấy tâm ý chính trực dẫn dắt hành vi, thông minh sáng suốt, lòng không ghen tị, thì mau thấu đạt lời ngay lành.

5. Ôm hận với kẻ cừu oán, thì oán vô tận; không oán hận thì oán hận tự trừ, đạo ấy vĩnh viễn chân thật cho người tôn xưng và làm theo.

6. Không hay chê trách người khác, chỉ xét thấu thân mình, nếu biết như vậy thì vĩnh viễn yên ổn, không tai hoạn.

7. Coi thân là thanh tịnh mà không thu nhiếp các giác quan, ăn uống không chừng mực, lười biếng và khiếp nhược thì bị tà tâm khống chế, như gió đè rạp cỏ.

8. Quán thân bất tịnh, nhiếp phục các giác quan, ăn uống biết tiết độ, thường vui tu tinh tiến, thì không bị tà tâm lung lay, như gió thổi núi lớn.

9. Không buông xả lòng độc ác, dục tâm rong ruổi, không tự điều chế thân tâm thì không xứng pháp y;

10. Xả bỏ lòng độc ác, giữ ý ngay lành, hàng phục được tâm, như vậy mới xứng pháp y.

11. Chân mà cho là ngụy, ngụy mà cho là chân, đó là tà kiến, không thể nào thấu được lẽ chân thật.

12. Chân biết là chân, ngụy biết là ngụy, đó là chính kiến, thế nào cũng thấu được lẽ chân thật.

13. Nhà lợp không kín thì bị mưa dột; tâm ý không sửa trị thì dâm dật lọt vào.

14. Nhà lợp kín không bị mưa dột; giữ gìn tâm ý thì dâm dật không sinh ra.

15. Lây nhiễm kẻ hèn kém giống như gần vật thối, dần dần tập nhiễm thói hư, lâu ngày thành ác mà không hay;

16. Gần gũi người hiền như gần gũi mùi thơm, thêm trí tuệ, tập điều hay, thân tâm dần thanh khiết, thơm tho.

17. Đời này lo buồn, đời sau lo buồn, làm ác thì hai đời phải lo buồn, kẻ kia lo buồn và sợ hãi, và khi thấy tội ác mình gây ra thì tâm thêm kinh hãi;

18. Đời này vui đời sau vui[1], làm lành thì hai đời được yên vui, kẻ kia yên vui và thư thái, thấy phúc lành mình đã gieo thì tâm thêm an.[2]

19. Đời này ăn năn, đời sau ăn năn, làm ác thì hai đời đều ăn năn, tự mình gây ra tai họa cho nên phải chịu tội báo bức bách;

20. Đời này vui đời sau vui, làm lành hai đời đều vui, do mình biết thương thân mình nên hưởng phúc, lòng an vui.

21. Nói nhiều, đa dục, phóng đãng không giữ giới, ôm giữ nhiều dâm nộ si, không chịu tu thiền quán sát tâm, những kẻ ấy tụ lại với nhau thì chỉ như bầy trâu, không phải là đệ tử Bụt.

22. Nói đúng thời, ít nhu cầu, sống đúng phép đạo, trừ dâm nộ si, giác ngộ được điều hay lẽ phải, tâm khai mở, những người ấy chính là đệ tử Bụt.

1. 心為法本,  心尊心使,  中心念惡, 即言即行,  罪苦自追,  車轢于轍;

Tâm vi pháp bổn, tâm tôn tâm sử, trung tâm niệm ác, tức ngôn tức hành, tội khổ tự truy, xa lịch vu triệt.

2. 心為法本,  心尊心使,  中心念善, 即言即行,  福樂自追,  如影隨形。

Tâm vi pháp bổn, tâm tôn tâm sử, trung tâm niệm thiện, tức ngôn tức hành, phúc lạc tự truy, như ảnh tùy hình.

3. 隨亂意行,  拘愚入冥,  自大無法, 何解善言? 

Tùy loạn ý hành, câu ngu nhập minh, tự đại vô pháp, hà giải thiện ngôn?

4. 隨正意行,  開解清明,

 不為妒嫉,  敏達善言。 

Tùy chính ý hành, khai giải thanh minh, bất vi đố tật, mẫn đạt thiện ngôn.

5. 慍於怨者, 未嘗無怨;  不慍自除,  是道可宗。

Uấn ư oán giả, vị thường vô oán; bất uấn tự trừ, thị đạo khả tôn.

6. 不好責彼,  務自省身,  如有知此, 永滅無患。 

Bất hiếu trách bỉ, vụ tự tỉnh thân, như hữu tri thử, vĩnh diệt vô hoạn.

7. 行見身淨,  不攝諸根,

 飲食不節,  慢墮怯弱,  為邪所制, 如風靡草; 

Hành kiến thân tịnh, bất nhiếp chư căn, ẩm thực bất tiết, mạn đọa khiếp nhược, vi tà sở chế, như phong mi thảo.

8. 觀身不淨,  能攝諸根,

 食知節度,  常樂精進,  不為邪動, 如風大山。 

Quán thân bất tịnh, năng nhiếp chư căn, thực tri tiết độ, thường lạc tinh tiến, bất vi tà động, như phong đại sơn.

9. 不吐毒態,  欲心馳騁,

 未能自調,  不應法衣; 

Bất thổ độc thái, dục tâm trì sính, vị năng tự điều, bất ứng pháp y;

10. 能吐毒態, 戒意安靜,  降心已調,  此應法衣。

Năng thổ độc thái, giới ý an tĩnh, hàng tâm dĩ điều, thử ứng pháp y;

11. 以真為偽、  以偽為真,  是為邪計, 不得真利; 

Dĩ chân vi ngụy, dĩ ngụy vi chân, thị vi tà kế, bất đắc chân lợi;

12. 知真為真、  見偽知偽,

 是為正計,  必得真利。 

Tri chân vi chân, kiến ngụy tri ngụy, thị vi chính kế, tất đắc chân lợi.

13. 蓋屋不密, 天雨則漏,  意不惟行,  淫泆為穿;

Cái ốc bất mật, thiên vũ tắc lậu, ý bất duy hành, dâm dật vi xuyên.

14. 蓋屋善密,  雨則不漏,  攝意惟行, 淫泆不生。 

Cái ốc thiện mật, vũ tắc bất lậu, nhiếp ý duy hành, dâm dật bất sinh.

15. 鄙夫染人,  如近臭物,

 漸迷習非,  不覺成惡; 

Bỉ phu nhiễm nhân, như cận xú vật, tiệm mê tập phi, bất giác thành ác;

16. 賢夫染人, 如近香熏,  進智習善,  行成潔芳。

Hiền phu nhiễm nhân, như cận hương huân, tiến trí tập thiện, hành thành khiết phương.

17. 造憂後憂,  行惡兩憂,  彼憂惟懼, 見罪心懅; 

Tạo ưu hậu ưu, hành ác lưỡng ưu, bỉ ưu duy cụ, kiến tội tâm cự;

18. 造喜後喜,  行善兩喜, 彼喜惟歡,  見福心安; 

Tạo thiện hậu thiện, hành thiện lưỡng thiện, bỉ thiện duy hoan, kiến phúc tâm an;

19. 今悔後悔, 為惡兩悔,  厥為自殃,  受罪熱惱;

Kim hối hậu hối, vi ác lưỡng hối, quyết vi tự ương, thụ tội nhiệt não;

20. 今歡後歡,  為善兩歡,  厥為自祐, 受福悅豫。 

Kim hoan hậu hoan, vi thiện lưỡng hoan, quyết vị tự hữu, thụ phúc duyệt dự.

21. 巧言多求,  放蕩無戒, 懷婬怒癡,  不惟止觀,  聚如群牛, 非佛弟子; 

Xảo ngôn đa cầu, phóng đãng vô giới, hoài dâm nộ si, bất duy thử quán, tụ như quần ngưu, phi Phật đệ tử.

22. 時言少求,  行道如法, 除婬怒癡,  覺正意解,  見對不起, 是佛弟子。

Thời ngôn thiểu cầu, hành đạo như pháp, trừ dâm nộ si, giác chính ý giải, kiến đối bất khởi, thị Phật đệ tử.



[1] Thích Minh Quang dịch là ‘Tạo vui đời sau vui, làm thiện hai đời vui.” Ở đây chữ cũng đọc /tháo/, nghĩa là ‘đời, kiếp, thời’. Nghĩa này thích hợp hơn.

[2] Cú 15 và 17 đi liền nhau và đứng sau 16 và 18 trong PCTD kinh.

Comments

Popular Posts

41. Nhị Quỷ Tranh Bửu Bối (Bách Dụ Kinh)

Bách Dụ Kinh, Dụ thứ 41 Xưa có hai con quỷ đói chung nhau một cái rương nhỏ, một cây gậy và một chiếc guốc. Chúng nảy ra tranh chấp, con nào cũng muốn được ý mình, cãi cọ kịch liệt hết ngày mà không phân xử được. Lúc ấy có người đi tới thấy vậy hỏi, ‘Cái rương, cây gậy và chiếc guốc có chi kì dị mà chúng mày tranh chấp ghê vậy?’ Quỷ đáp, ‘Cái rương này của bọn tao có thể xuất ra đủ thứ, áo quần, ăn uống, giường đệm, ngọa cụ; hết thảy những thứ vật dụng hàng ngày đều từ nó mà ra. Cầm cây gậy này thì oán địch sẽ quy phục, không dám tranh với mình nữa. Mang chiếc guốc này thì có thể khiến người ta bay đi không quái ngại.’ Người ấy nghe thế liền bảo hai con quỷ, ‘Hai đứa bây tránh ra một chút, để tao chia đều cho.’ Bọn quỷ nghe nói vậy liền tránh ra xa. Người ấy ngay tức khắc ôm rương, chụp lấy gậy và xỏ guốc bay mất, hai con quỷ ngơ ngác, tranh nhau cuối cùng không được chi. Người kia nói với quỷ ‘Những thứ bọn bây tranh nhau ta lấy đi hết rồi, bây giờ không có chi phải tranh đoạt nhau nữ...

55. Xá-lợi-phất Đi Thăm Phật Duy-vệ

Dụ 55. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔佛遣舍利弗,西至維衛莊嚴剎土,問訊彼佛三事:「佛身安隱不?說法如常不?受者增進不?」舍利弗即承佛威神往詣彼剎,宣令如是。彼佛報言:「皆悉安隱。」於時彼佛轉阿惟越致輪,為七住菩薩說法,舍利弗聞之,從彼剎還,姿色光明行步勝常。佛告舍利弗:「汝到彼,何故侅步怡悅如是。」舍利弗白佛言:「譬如貧家飢凍之人得大珍寶如須彌山,寧歡喜不?」佛言:「甚善!」舍利弗言:「我到彼剎,得聞彼佛說阿惟越致深奧之事,是以欣踊不能自勝。」佛言:「善哉!如汝所言。」佛語舍利弗:「譬如長者大迦羅越,純以紫磨金、摩尼珠為寶,內有掃除銅鐵鉛錫 棄在於外糞壤之中,有貧匱者喜得持歸,言我大得迦羅越寶,寧是長者珍妙寶非?」答言:「非也。」佛語舍利弗:「汝所聞得,如是貧者,彼佛所說但十住事及在舉中清淨之者 ,汝所聞者不足言耳。」舍利弗即愁毒,如言我謂得寶,反是鉛錫。舍利弗說是事時,無央數人皆發無上平等度意,無央數人得阿惟顏住也。 Âm  Tích Phật khiển Xá-lợi-phất, tây chí Duy-vệ trang nghiêm sát thổ, vấn tấn bỉ Phật tam sự, ‘Phật thân an ẩn bất? Thuyết pháp như thường bất? Thụ giả tăng tiến bất?’ Xá-lợi-phất tức thừa Phật uy thần vãng nghệ bỉ sát, tuyên lệnh như thị. Bỉ Phật báo ngôn giai tất an ẩn. Ư thời bỉ Phật chuyển a-duy-việt-trí luân, vi thất trụ bồ-tát thuyết pháp, Xá-lợi-phất văn chi, tòng bỉ sát hoàn, tư sắc quang minh hành bộ thắng thường. Phật cáo Xá-lợi-phất, ‘Nhữ đáo bỉ, hà cố ? bộ di duyệt như thị?’ Xá-lợi-phất bạch Phật ngôn, ‘Thí như bần gia cơ đống chi nhân đắc đại trân...

82. Phật Nói Cho Chúng Tì-khâu Biết Tai Hoạn Của Lợi Dưỡng

Truyện 82. Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 7  Lúc đó Như Lai ở nước Xá-vệ, chán lợi dưỡng. Có một khu rừng sâu tên là Tham Trang Nghiêm, Ngài tránh nạn lợi dưỡng nên đi vào rừng ấy. Trong rừng có chùa, có vị la-hán tên Na-dặc-ca làm tự chủ. Phật tới rừng ấy thì hôm sau nhiều người đem áo tới cúng dường, chật cả khu rừng. Phật nói: “Ta không dùng lợi dưỡng, nhưng lợi dưỡng thường theo ta.” Có một vạn hai ngàn tì-khâu cũng tới chỗ đó. Phật nói chư tì-khâu: “Lợi dưỡng là thứ đại tai hại, thường gây chướng nạn, tới cả la-hán cũng bị lợi dưỡng gây chướng nạn.” Tì-khâu hỏi: “Gây những chướng nạn chi?” Phật đáp: “Lợi dưỡng có những cái hại sau: phá bì, phá nhục, phá cốt, phá tuỷ. Phá như thế nào? Phá da trì giới, thịt thiền định, xương trí tuệ, và tủy thiện tâm vi diệu.” Chư tì-khâu một vạn hai ngàn người đều gom tam y lục vật hành a-luyện-nhã, không lấy thêm vật chi khác. Phật liền tán thán: “Thiện tai, thiện tai! Biết hành trì phép a-luyện-nhã. Phép này của ta là phép thiểu dục, chẳng phải đa d...

36. Nhờ Ăn Trộm Mà Ngộ Đạo

Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, Truyện thứ 36 Xưa trong Phật tự có cái nồi bằng vàng dùng để nấu ngũ vị cho chúng tăng. Lúc ấy có một phàm nhân vô chùa ngắm đồ, thấy cái nồi vàng, muốn trộm lấy nhưng không có duyên cớ, giả làm sa-môn rồi khoác y phục lẫn vào trong chúng tăng. Nghe các vị thượng tọa giảng kinh, luận thuyết những ách yếu về tội phúc, sinh tử và lí nhân duyên quả báo không chạy thoát được. Kẻ trộm trong lòng khai ngộ, lấy làm xấu hổ, dọn lòng chuyên tâm liền thấy vết đạo. Suy ngẫm duyên do, nhận cái nồi là thầy mình, trước hết tác lễ riêng rồi nhiễu quanh nó ba vòng, xong tự đem chuyện ra nói hết cho chúng sa-môn.  Giác ngộ mỗi người một nhân duyên, hễ tâm chuyên nhất thì không ai không thấy chân lí. 09/10/2024 sao thêm nguyên văn và phiên âm 昔佛寺中有金釜,以烹五味供給道人。時有凡人入觀見金釜,欲盜取之,無所因,詐作沙門,被服入眾僧中。聞上座論經,說諸罪福生死證要,影嚮之報不可得離之證。盜人意中開悟,懷慚悔,撰情專心則見道迹。思惟所由,釜是我師,特先禮釜繞之三匝,為眾沙門具自道說。夫覺悟各有所因,心專一者莫不見諦也。 Phiên âm Tích Phật tự trung hữu kim phủ, dĩ phanh ngũ vị cung cấp đạo nhân. Thời hữu phàm nhân nhập...