雙要品者,兩兩相明,善惡有對,舉義不單。
Song yếu phẩm giả, lưỡng lưỡng tương minh, thiện ác hữu đối, phụng nghĩa bất đơn.
Đại ý của phẩm Song Yếu là từng cặp pháp cú làm rõ nhau, thiện ác đối nhau, nêu rõ nghĩa lí bằng hình thức song đối. Phẩm này ứng với phẩm thứ X trong Kinh Pháp Cú Thí Dụ và có 22 kệ.
Nghĩa | Kinh văn và phiên âm |
1. Tâm là gốc mọi pháp, tâm làm chủ, tâm sai khiến, trong tâm niệm ác mà nói hoặc làm, thì tội và khổ theo sau, như bánh xe lăn theo rãnh xe chạy. 2. Tâm là gốc mọi pháp, tâm làm chủ, tâm sai khiến, trong tâm niệm thiện mà nói hoặc làm thì phúc và an lạc theo sau, như ảnh theo hình. 3. Lấy tâm ý tà loạn dẫn dắt hành vi, hun đúc ngu si và sống trong u minh, tự đại không phép tắc, thì làm sao hiểu được lời ngay lành? 4. Lấy tâm ý chính trực dẫn dắt hành vi, thông minh sáng suốt, lòng không ghen tị, thì mau thấu đạt lời ngay lành. 5. Ôm hận với kẻ cừu oán, thì oán vô tận; không oán hận thì oán hận tự trừ, đạo ấy vĩnh viễn chân thật cho người tôn xưng và làm theo. 6. Không hay chê trách người khác, chỉ xét thấu thân mình, nếu biết như vậy thì vĩnh viễn yên ổn, không tai hoạn. 7. Coi thân là thanh tịnh mà không thu nhiếp các giác quan, ăn uống không chừng mực, lười biếng và khiếp nhược thì bị tà tâm khống chế, như gió đè rạp cỏ. 8. Quán thân bất tịnh, nhiếp phục các giác quan, ăn uống biết tiết độ, thường vui tu tinh tiến, thì không bị tà tâm lung lay, như gió thổi núi lớn. 9. Không buông xả lòng độc ác, dục tâm rong ruổi, không tự điều chế thân tâm thì không xứng pháp y; 10. Xả bỏ lòng độc ác, giữ ý ngay lành, hàng phục được tâm, như vậy mới xứng pháp y. 11. Chân mà cho là ngụy, ngụy mà cho là chân, đó là tà kiến, không thể nào thấu được lẽ chân thật. 12. Chân biết là chân, ngụy biết là ngụy, đó là chính kiến, thế nào cũng thấu được lẽ chân thật. 13. Nhà lợp không kín thì bị mưa dột; tâm ý không sửa trị thì dâm dật lọt vào. 14. Nhà lợp kín không bị mưa dột; giữ gìn tâm ý thì dâm dật không sinh ra. 15. Lây nhiễm kẻ hèn kém giống như gần vật thối, dần dần tập nhiễm thói hư, lâu ngày thành ác mà không hay; 16. Gần gũi người hiền như gần gũi mùi thơm, thêm trí tuệ, tập điều hay, thân tâm dần thanh khiết, thơm tho. 17. Đời này lo buồn, đời sau lo buồn, làm ác thì hai đời phải lo buồn, kẻ kia lo buồn và sợ hãi, và khi thấy tội ác mình gây ra thì tâm thêm kinh hãi; 18. Đời này vui đời sau vui[1], làm lành thì hai đời được yên vui, kẻ kia yên vui và thư thái, thấy phúc lành mình đã gieo thì tâm thêm an.[2] 19. Đời này ăn năn, đời sau ăn năn, làm ác thì hai đời đều ăn năn, tự mình gây ra tai họa cho nên phải chịu tội báo bức bách; 20. Đời này vui đời sau vui, làm lành hai đời đều vui, do mình biết thương thân mình nên hưởng phúc, lòng an vui. 21. Nói nhiều, đa dục, phóng đãng không giữ giới, ôm giữ nhiều dâm nộ si, không chịu tu thiền quán sát tâm, những kẻ ấy tụ lại với nhau thì chỉ như bầy trâu, không phải là đệ tử Bụt. 22. Nói đúng thời, ít nhu cầu, sống đúng phép đạo, trừ dâm nộ si, giác ngộ được điều hay lẽ phải, tâm khai mở, những người ấy chính là đệ tử Bụt.
| 1. 心為法本, 心尊心使, 中心念惡, 即言即行, 罪苦自追, 車轢于轍; Tâm vi pháp bổn, tâm tôn tâm sử, trung tâm niệm ác, tức ngôn tức hành, tội khổ tự truy, xa lịch vu triệt. 2. 心為法本, 心尊心使, 中心念善, 即言即行, 福樂自追, 如影隨形。 Tâm vi pháp bổn, tâm tôn tâm sử, trung tâm niệm thiện, tức ngôn tức hành, phúc lạc tự truy, như ảnh tùy hình. 3. 隨亂意行, 拘愚入冥, 自大無法, 何解善言? Tùy loạn ý hành, câu ngu nhập minh, tự đại vô pháp, hà giải thiện ngôn? 4. 隨正意行, 開解清明, 不為妒嫉, 敏達善言。 Tùy chính ý hành, khai giải thanh minh, bất vi đố tật, mẫn đạt thiện ngôn. 5. 慍於怨者, 未嘗無怨; 不慍自除, 是道可宗。 Uấn ư oán giả, vị thường vô oán; bất uấn tự trừ, thị đạo khả tôn. 6. 不好責彼, 務自省身, 如有知此, 永滅無患。 Bất hiếu trách bỉ, vụ tự tỉnh thân, như hữu tri thử, vĩnh diệt vô hoạn. 7. 行見身淨, 不攝諸根, 飲食不節, 慢墮怯弱, 為邪所制, 如風靡草; Hành kiến thân tịnh, bất nhiếp chư căn, ẩm thực bất tiết, mạn đọa khiếp nhược, vi tà sở chế, như phong mi thảo. 8. 觀身不淨, 能攝諸根, 食知節度, 常樂精進, 不為邪動, 如風大山。 Quán thân bất tịnh, năng nhiếp chư căn, thực tri tiết độ, thường lạc tinh tiến, bất vi tà động, như phong đại sơn. 9. 不吐毒態, 欲心馳騁, 未能自調, 不應法衣; Bất thổ độc thái, dục tâm trì sính, vị năng tự điều, bất ứng pháp y; 10. 能吐毒態, 戒意安靜, 降心已調, 此應法衣。 Năng thổ độc thái, giới ý an tĩnh, hàng tâm dĩ điều, thử ứng pháp y; 11. 以真為偽、 以偽為真, 是為邪計, 不得真利; Dĩ chân vi ngụy, dĩ ngụy vi chân, thị vi tà kế, bất đắc chân lợi; 12. 知真為真、 見偽知偽, 是為正計, 必得真利。 Tri chân vi chân, kiến ngụy tri ngụy, thị vi chính kế, tất đắc chân lợi. 13. 蓋屋不密, 天雨則漏, 意不惟行, 淫泆為穿; Cái ốc bất mật, thiên vũ tắc lậu, ý bất duy hành, dâm dật vi xuyên. 14. 蓋屋善密, 雨則不漏, 攝意惟行, 淫泆不生。 Cái ốc thiện mật, vũ tắc bất lậu, nhiếp ý duy hành, dâm dật bất sinh. 15. 鄙夫染人, 如近臭物, 漸迷習非, 不覺成惡; Bỉ phu nhiễm nhân, như cận xú vật, tiệm mê tập phi, bất giác thành ác; 16. 賢夫染人, 如近香熏, 進智習善, 行成潔芳。 Hiền phu nhiễm nhân, như cận hương huân, tiến trí tập thiện, hành thành khiết phương. 17. 造憂後憂, 行惡兩憂, 彼憂惟懼, 見罪心懅; Tạo ưu hậu ưu, hành ác lưỡng ưu, bỉ ưu duy cụ, kiến tội tâm cự; 18. 造喜後喜, 行善兩喜, 彼喜惟歡, 見福心安; Tạo thiện hậu thiện, hành thiện lưỡng thiện, bỉ thiện duy hoan, kiến phúc tâm an; 19. 今悔後悔, 為惡兩悔, 厥為自殃, 受罪熱惱; Kim hối hậu hối, vi ác lưỡng hối, quyết vi tự ương, thụ tội nhiệt não; 20. 今歡後歡, 為善兩歡, 厥為自祐, 受福悅豫。 Kim hoan hậu hoan, vi thiện lưỡng hoan, quyết vị tự hữu, thụ phúc duyệt dự. 21. 巧言多求, 放蕩無戒, 懷婬怒癡, 不惟止觀, 聚如群牛, 非佛弟子; Xảo ngôn đa cầu, phóng đãng vô giới, hoài dâm nộ si, bất duy thử quán, tụ như quần ngưu, phi Phật đệ tử. 22. 時言少求, 行道如法, 除婬怒癡, 覺正意解, 見對不起, 是佛弟子。 Thời ngôn thiểu cầu, hành đạo như pháp, trừ dâm nộ si, giác chính ý giải, kiến đối bất khởi, thị Phật đệ tử.
|
Comments
Post a Comment