Song yếu phẩm giả, dẫn luật giới tình, phòng tà kiểm thất, dĩ đạo khuyến hiền.
Đại ý của phẩm Phóng Dật là khuyên hành giả rán giữ đạo lành, thực hành giới luật tinh nghiêm để, tiết chế tình dục của mình, phòng hộ không để tà ý lọt vào tâm, không để tâm rơi vào chỗ phóng túng. Phẩm này có 20 kệ.
Nghĩa | Kinh văn và phiên âm |
1. Giới là đường an lành, buông thả là đường chết, không tham dục thì không chết, đánh mất thiện căn là tự đào mồ chôn mình. 2. Người có trí tuệ ôm lấy đạo thù thắng, rốt cục không rơi vào nẻo buông thả, không để lòng nơi tham dục chính là nguồn hoan hỉ, theo được đường đi ấy sẽ được đạo an lạc. 3. Luôn tư duy điều ngay thẳng, dám giữ lấy đạo chính trực, người dũng mãnh như thế vượt ra khỏi thế tục và gặt được nhiều tốt đẹp hơn hết thảy. 4. Giữ chánh niệm thì lòng thường sáng rỡ, hướng tới chỗ cao thượng, hành vi thanh tịnh thì tội ác mau tiêu diệt, nhiếp tâm khống chế lòng dục và lấy đó làm sự nghiệp trên đường tu đạo, quyết không sai phạm thì tiếng lành ngày một bay xa. 5. Phát tâm giữ hạnh lành, không buông thả, tự hứa với lòng mình sẽ điều tâm, có trí tuệ như vậy thì có sức tạo được an tĩnh và sáng suốt trong tâm, người như thế quyết không trở lại vào chốn u minh. 6. Kẻ ngu tâm ý hồ đồ hôn ám, đầy dẫy tham loạn và ưa tranh tụng; kẻ thượng trí thường thận trọng, hộ trì tâm ý như nhà giàu giữ của. 7. Chớ tham lam, chớ ưa tranh tụng, cũng đừng ham mê dục lạc, giữ lòng chớ buông thả, như vậy mới thấu được niềm vui lớn. 8. Đứng trước cám dỗ buông thả mà tự cấm lòng mình được thì có thể trừ bỏ đường dữ làm thánh hiền, cũng như người lên trên lầu trí tuệ, chắc chắn thoát khỏi mọi ách nạn, sẽ yên ổn vĩnh viễn. 9. Người có trí tuệ thông suốt với người ngu tối tăm, ví như lên núi cao nhìn xuống đất bằng; ở trong mê loạn mà thân hành ngay thẳng, một mình giác ngộ chân lí, người như vậy có sức mạnh hơn cả sư tử vì đã dứt ác để làm bậc đại trí. 10. Đắm chìm trong hôn ám nặng như núi, bị nghi ngại tối tăm che khuất tâm trí, chỉ biết ngủ kĩ mà không thấy cái khổ nó nhận chìm mình, người như vậy cứ ra vào bào thai mãi. 11. Người nào không phóng túng làm càn có thể chế ngự được những lậu hoặc và dứt được đường sinh tử; phóng túng buông thả thì ma được việc của nó, như sư tử vồ bắt nai dễ dàng. 12. Người nào không phóng túng buông thả, người ấy chính là tì-khưu giữ giới; niệm tâm ngay thẳng và thanh tịnh, ấy là hộ trì tâm mình. 13. Người tu hành phải cẩn thận đừng vướng vào dục lạc, vì phóng túng theo dục lạc thường đưa lại nhiều ưu não và tội ác, khiến cho mình vướng vào những hệ lụy, những cạnh tranh từ vặt vãnh cho tới lớn lao, tích nhiều ác nghiệp để rồi phải đọa hỏa ngục. 14. Giữ giới hưởng nhiều phước lành, phạm giới tâm sợ hãi; người nào có sức cắt đứt được phiền não của tam giới thì đã gần kề niết-bàn. 15. Trước phóng dật mà sau chế ngự được, người đó là ánh sáng chiếu soi thế gian, được như vậy là nhờ người ấy đã lấy chánh niệm làm chỗ an trụ cho sự hành trì của mình. 16. Trước buông thả làm ác mà sau quay đầu phục thiện, người đó là ánh sáng chiếu soi thế gian, được như vậy là nhờ người ấy đã lấy thiện niệm làm chỗ an trụ cho sự hành trì của mình. 17. Nhỏ tuổi đã từ bỏ nhà cửa, dũng mãnh cầu đạo giác ngộ, người đó là ánh sáng chiếu soi thế gian, như mặt trăng ra khỏi mây mù; 18. Trước theo đường ác mà sau biết chỗ dừng dứt trọn đường ác, người đó là ánh sáng chiếu soi thế gian, như mặt trăng ra khỏi mây mù. 19. [[1] Khi sống không não hại người thì khi chết không phải lo sợ, nếu thấu suốt được đạo ấy thì nên sống cho hợp, chớ lo lắng.] 20. [Dứt hết mọi hành vi ô nhiễm và đen tối, chỉ hành trì đường trong sạch, lương thiện thì có thể qua khỏi vực sâu mà không phải quay trở lại; dẹp bỏ mọi chỗ nương nhờ và tu hành chỉ quán thì không phải bị trói buộc trong vòng khoái lạc; dứt hết ái dục sẽ đạt tới cõi vô ưu.]
| 1. 戒為甘露道, 放逸為死徑, 不貪則不死, 失道為自喪; Giới vi cam lộ đạo, phóng dật vi tử kính, bất tham tắc bất tử, thất đạo vi tự táng; 2. 慧智守道勝, 終不為放逸, 不貪致歡喜, 從是得道樂。 Tuệ trí thủ đạo thắng, chung bất vi phóng dật, bất tham trí hoan hỉ, tòng thị đắc đạo lạc. 3. 常當惟念道, 自強守正行, 健者得度世, 吉祥無有上。 Thường đương duy niệm đạo, tự cường thủ chánh hành, kiện giả đắc độ thế, cát tường vô hữu thượng. 4. 正念常興起, 行淨惡易滅, 自制以法壽, 不犯善名增。 Chánh niệm thường hưng khởi, hành tịnh ác dị diệt, tự chế dĩ pháp thọ, bất phạm thiện danh tăng. 5. 發行不放逸, 約以自調心, 慧能作定明, 不返冥淵中。 Phát hành bất phóng dật, ước dĩ tự điều tâm, tuệ năng tác định minh, bất phản minh uyên trung. 6. 愚人意難解, 貪亂好諍訟, 上智常重慎, 護斯為寶尊。 Ngu nhân ý nan giải, tham loạn hiếu tránh tụng, thượng trí thường trọng thận, hộ tư vi bảo tôn. 7. 莫貪、莫好諍、 亦莫嗜欲樂, 思心不放逸, 可以獲大安。 Mạc tham, mạc hiếu tránh, diệc mạc thị dục lạc, tư tâm bất phóng dật, khả dĩ hoạch đại an. 8. 放逸如自禁, 能卻之為賢, 已昇智慧閣, 去危為即安。 Phóng dật như tự cấm, năng khước chi vi hiền, dĩ thăng trí tuệ các, khứ nguy vi tức an. 9. 明智觀於愚, 譬如山與地, 居亂而身正, 彼為獨覺悟, 是力過師子, 棄惡為大智。 Minh trí quan vu ngu, thí như san dữ địa, cư loạn nhi thân chánh, bỉ vi độc giác ngộ, thị lực quá sư tử, khí ác vi đại trí. 10. 睡眠重若山, 癡冥為所弊, 安臥不計苦, 是以常受胎。 Thụy miên trọng nhược san, si minh vi sở tệ, an ngọa bất kế khổ, thị dĩ thường thụ thai. 11. 不為時自恣, 能制漏得盡, 自恣魔得便, 如師子搏鹿。 Bất vi thì tự tứ, năng chế lậu đắc tận, tự tứ ma đắc tiện, như sư tử bác lộc. 12. 能不自恣者, 是為戒比丘, 彼思正淨者, 常當自護心。 Năng bất tự tứ giả, thị vi giới tỉ-khưu, bỉ tư chánh tịnh giả, thường đương tự hộ tâm. 13. 比丘謹慎樂, 放逸多憂愆, 變諍小致大, 積惡入火焰。 Tỉ-khưu cẩn thận lạc, phóng dật đa ưu khiên, biến tránh tiểu trí đại, tích ác nhập hỏa diễm. 14. 守戒福致善, 犯戒有懼心, 能斷三界漏, 此乃近泥洹。 Thủ giới phúc trí thiện, phạm giới hữu cụ tâm, năng đoạn tam giới lậu, thử nãi cận nê hoàn. 15. 若前放逸, 後能自禁, 是炤世間, 念定其宜; Nhược tiền phóng dật, hậu năng tự cấm, thị chiếu thế gian, niệm định kì nghi; 16. 過失為惡, 追覆以善, 是炤世間, 念善其宜; Quá thất vi ác, truy phúc dĩ thiện, thị chiếu thế gian, niệm thiện kì nghi; 17. 少壯捨家, 盛修佛教, 是炤世間, 如月雲消; Thiểu tráng xả gia, thịnh tu Phật giáo, thị chiếu thế gian, như nguyệt vân tiêu; 18. 人前為惡, 後止不犯, 是炤世間, 如月雲消。 Nhân tiền vi ác, hậu chỉ bất phạm, thị chiếu thế gian, như nguyệt vân tiêu. 19. 生不施惱、 死而不慼, 是見道悍, 應中勿憂。 Sanh bất thi não, tử nhi bất thích, thị kiến đạo hãn, ứng trung vật ưu. 20. 斷濁黑法, 學惟清白, 度淵不反, 棄猗行止, 不復染樂, 欲斷無憂。 Đoạn trọc hắc pháp, học duy thanh bạch, độ uyên bất phản, khí y hành chỉ, bất phục nhiễm lạc, dục đoạn vô ưu.
|
Comments
Post a Comment