Skip to main content

55. Nhân Duyên Sariputra Lợi Trí Thông Minh

Thuở xưa, đại để tử của Phật là Sariputra xuất gia không lâu thì dứt hết phiền não, chứng A La Hán quả. Các tì khưu khác thấy lạ và hiếu kì, mới nói với Thế Tôn: ‘Sariputra quá khứ làm gì mà đời này có được lợi trí thông minh như thế, chứng đắc vô nghi hoặc trí như vậy?’
Phật đáp: ‘Thiện hay ác nghiệp tạo tác trong đời quá khứ, thì quả báo quay lại tự thân. Nay tôi nói rõ cho các ông biết những việc làm trong đời quá khứ của Sariputra, cùng nói cho các ông biết cái đạo lí nhân nào quả ấy.’
Trong đời quá khứ ở một thôn lạc nọ, có một vị Bà La Môn, cưới vợ không lâu thì sinh được một người con trai; một vài năm sau lại sinh được một người con gái. Hai anh em lớn lên, thì cha mẹ già đi rồi mất. Người anh kinh qua cái chết của cha mẹ, muốn đi vào núi rừng ẩn cư, và mang theo người em gái ở cùng. Hai anh em nhặt nhạnh hoa trái mà sống.
Các vị, loài rắn đen (đại hắc xà) có năm thứ họa hoạn, một là đa sân, hai là đa hận, ba là làm ác, bốn là vô ân, năm là hiểm độc. Người nữ cũng có năm thứ tai họa như thế, một là đa sân, hai là đa hận, ba là làm ác, bốn là vô ân, năm là nọc độc. Vì sao nói người nữ hiểm độc? Vì họ ôm ấp nhiều tham ái. Người em gái khi trưởng thành, thì tâm tham ái ngũ dục cũng ngày càng lớn mạnh, mới nói với người anh: ‘Em nay không thể cứ ăn cây trái mà sống được, em muốn vô chỗ người ta ở để kiếm ăn.’ Người anh thương em, nên dắt người em ra khỏi chỗ núi rừng tới một nhà Bà La Môn xin đồ ăn.
Anh em cùng kêu cửa, chủ nhân nghe tiếng bước ra thấy hai người, hỏi: ‘Ẩn cư cũng có vợ con sao?’ Người anh đáp: ‘Không phải vợ, em gái tôi đó.’ Bà La Môn lại hỏi: ‘Em gái ông đã hứa hôn cho ai chưa?’ Anh đáp: ‘Chưa.’ Bà La Môn lại hỏi: ‘Nếu vậy sao ông không gả em gái cho tôi?’ Anh đáp: ‘Chúng tôi đã viễn li các pháp tham ái ô nhiễm.’ Người em tham ái ngũ dục, liền nói với anh: ‘Sao em cứ phải ở chỗ rừng núi, lượm lặt hoa quả mà sống qua ngày?’ Em nay không chịu được lối sống đó nữa, anh hãy gả em cho vị Bà La Môn này đi! Mong anh cũng ra khỏi núi rừng mà sống với nhân quần.’ Người anh nói với em: ‘Anh thật không muốn gả em cho ông Bà La Môn. Chẳng qua do em luyến tiếc thế tục, nên đành chìu ý em thôi.’
Bà La Môn hiểu ý người em gái, đưa cô vào hội kiến tông thân, cưới làm vợ, rồi nói với người anh: ‘Anh ở đây với chúng tôi đi, tôi sẽ soạn riêng cho anh một phòng.’ Người anh nói: ‘Tôi không cầu khoái lạc ngũ dục, chỉ vui đời xuất gia tu hành.’ Người em nói: ‘Chi mong anh đáp ứng một yêu cầu của em, rồi thì tùy anh quyết.’ Người anh hỏi: ‘Yêu cầu thế nào?’ Em nói: ‘Nếu anh chứng đắc thắng quả, nhất định phải về gặp em.’ Anh nói: ‘Được. Anh sẽ đáp ứng nguyện vọng của em.’ Nói xong ra đi, tìm tới một vị ẩn sĩ rồi theo ông ấy tu hành.
Người anh do thiện căn đời trước thâm hậu, không thầy mà chứng ngộ được ba mươi bảy phẩm trợ đạo, rồi chứng đắc vị độc giác, trong lòng nghĩ: ‘Ta từng chịu lời em gái, chứng quả rồi sẽ về gặp nó, nay sẽ đi.’ Nói rồi dùng thần thông lực đi tới chỗ người em gái, bay lên hư không, triển hiện thần thông, thân trên xuất lửa, dưới chân xuất nước, thiên biến vạn hóa, xong rồi lại đảo thân trên không mà đáp xuống. Người em thấy anh trai triển hiện thần thông liền rạp người đỉnh lễ nói: ‘Anh tuy chứng đắc quả vị thù diệu như vậy, nhưng cũng phải lấy ẩm thực mà nuôi dưỡng sắc thân. Em muốn cung dưỡng anh để thêm phúc, mong anh ở lại với em.’ Người anh nói với em: ‘Em không nên tự tác chủ ý, nên hỏi ý chồng.’ Người em liền vô hỏi ý chồng: ‘Anh tôi xuất gia, đã chứng đắc diệu quả, là thế gian đệ nhất. Nếu ông đáp ứng lời tôi, thì tôi muốn giữ anh ba tháng để chu cấp.’ Người chồng đáp: ‘Anh của cô nếu không muốn xuất gia tôi cũng tự nguyện chu cấp cho ông ấy. Huống chi là ông ấy đã xuất gia, lại chứng đắc quả vị thánh nhân. Nên tùy ý cô, cứ giữ ông ấy lại ba tháng.’
Trong ba tháng ấy, người em gái đãi người anh những món quý hiếm. Chẳng bao lâu mà hết ba tháng, người em lại tặng cho anh một tấm giạ trắng thượng đẳng, một con dao và một cái kim. Người anh lấy dao cắt tấm giạ trắng, ngọn dao rất bén, cắt gọn tấm giạ. Người em nhìn thấy, liền cúi người phát nguyện: ‘Nguyện căn tính của em được như lưỡi dao này. Suy xét nhạy bén thông tuệ, đến thời vị lai, có thể thành tựu trí tuệ mẫn nhuệ.’ Người anh lại tiếp tục may chế áo giạ, dùng mũi kim rất khéo, may thành áo mà không vấp vướng. Người em thấy vậy liền phát nguyện: ‘Nguyện em từ nay cho tới vị lai, trí tuệ sẽ như cây kim này, thông đạt vô ngại.’
Phật nói với các vị tì khưu: ‘Vợ của ông Bà La Môn ấy chính là tiền thân của Sariputra. Do quá khứ cung kính tặng cho vị độc giác thánh nhân lưỡi dao, mũi kim, và tấm giạ trắng, lại phát nguyện mạnh mẽ mà đời nay có được trí tuệ đệ nhất. Các vị, làm ác tất chịu ác báo, làm lành tất có thiện căn. Đạo lí nhân quả đó, các ông nên tin theo mà phụng hành.’

Comments

Popular Posts

55. Xá-lợi-phất Đi Thăm Phật Duy-vệ

Dụ 55. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔佛遣舍利弗,西至維衛莊嚴剎土,問訊彼佛三事:「佛身安隱不?說法如常不?受者增進不?」舍利弗即承佛威神往詣彼剎,宣令如是。彼佛報言:「皆悉安隱。」於時彼佛轉阿惟越致輪,為七住菩薩說法,舍利弗聞之,從彼剎還,姿色光明行步勝常。佛告舍利弗:「汝到彼,何故侅步怡悅如是。」舍利弗白佛言:「譬如貧家飢凍之人得大珍寶如須彌山,寧歡喜不?」佛言:「甚善!」舍利弗言:「我到彼剎,得聞彼佛說阿惟越致深奧之事,是以欣踊不能自勝。」佛言:「善哉!如汝所言。」佛語舍利弗:「譬如長者大迦羅越,純以紫磨金、摩尼珠為寶,內有掃除銅鐵鉛錫 棄在於外糞壤之中,有貧匱者喜得持歸,言我大得迦羅越寶,寧是長者珍妙寶非?」答言:「非也。」佛語舍利弗:「汝所聞得,如是貧者,彼佛所說但十住事及在舉中清淨之者 ,汝所聞者不足言耳。」舍利弗即愁毒,如言我謂得寶,反是鉛錫。舍利弗說是事時,無央數人皆發無上平等度意,無央數人得阿惟顏住也。 Âm  Tích Phật khiển Xá-lợi-phất, tây chí Duy-vệ trang nghiêm sát thổ, vấn tấn bỉ Phật tam sự, ‘Phật thân an ẩn bất? Thuyết pháp như thường bất? Thụ giả tăng tiến bất?’ Xá-lợi-phất tức thừa Phật uy thần vãng nghệ bỉ sát, tuyên lệnh như thị. Bỉ Phật báo ngôn giai tất an ẩn. Ư thời bỉ Phật chuyển a-duy-việt-trí luân, vi thất trụ bồ-tát thuyết pháp, Xá-lợi-phất văn chi, tòng bỉ sát hoàn, tư sắc quang minh hành bộ thắng thường. Phật cáo Xá-lợi-phất, ‘Nhữ đáo bỉ, hà cố ? bộ di duyệt như thị?’ Xá-lợi-phất bạch Phật ngôn, ‘Thí như bần gia cơ đống chi nhân đắc đại trân...

41. Nhị Quỷ Tranh Bửu Bối (Bách Dụ Kinh)

Bách Dụ Kinh, Dụ thứ 41 Xưa có hai con quỷ đói chung nhau một cái rương nhỏ, một cây gậy và một chiếc guốc. Chúng nảy ra tranh chấp, con nào cũng muốn được ý mình, cãi cọ kịch liệt hết ngày mà không phân xử được. Lúc ấy có người đi tới thấy vậy hỏi, ‘Cái rương, cây gậy và chiếc guốc có chi kì dị mà chúng mày tranh chấp ghê vậy?’ Quỷ đáp, ‘Cái rương này của bọn tao có thể xuất ra đủ thứ, áo quần, ăn uống, giường đệm, ngọa cụ; hết thảy những thứ vật dụng hàng ngày đều từ nó mà ra. Cầm cây gậy này thì oán địch sẽ quy phục, không dám tranh với mình nữa. Mang chiếc guốc này thì có thể khiến người ta bay đi không quái ngại.’ Người ấy nghe thế liền bảo hai con quỷ, ‘Hai đứa bây tránh ra một chút, để tao chia đều cho.’ Bọn quỷ nghe nói vậy liền tránh ra xa. Người ấy ngay tức khắc ôm rương, chụp lấy gậy và xỏ guốc bay mất, hai con quỷ ngơ ngác, tranh nhau cuối cùng không được chi. Người kia nói với quỷ ‘Những thứ bọn bây tranh nhau ta lấy đi hết rồi, bây giờ không có chi phải tranh đoạt nhau nữ...

82. Phật Nói Cho Chúng Tì-khâu Biết Tai Hoạn Của Lợi Dưỡng

Truyện 82. Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 7  Lúc đó Như Lai ở nước Xá-vệ, chán lợi dưỡng. Có một khu rừng sâu tên là Tham Trang Nghiêm, Ngài tránh nạn lợi dưỡng nên đi vào rừng ấy. Trong rừng có chùa, có vị la-hán tên Na-dặc-ca làm tự chủ. Phật tới rừng ấy thì hôm sau nhiều người đem áo tới cúng dường, chật cả khu rừng. Phật nói: “Ta không dùng lợi dưỡng, nhưng lợi dưỡng thường theo ta.” Có một vạn hai ngàn tì-khâu cũng tới chỗ đó. Phật nói chư tì-khâu: “Lợi dưỡng là thứ đại tai hại, thường gây chướng nạn, tới cả la-hán cũng bị lợi dưỡng gây chướng nạn.” Tì-khâu hỏi: “Gây những chướng nạn chi?” Phật đáp: “Lợi dưỡng có những cái hại sau: phá bì, phá nhục, phá cốt, phá tuỷ. Phá như thế nào? Phá da trì giới, thịt thiền định, xương trí tuệ, và tủy thiện tâm vi diệu.” Chư tì-khâu một vạn hai ngàn người đều gom tam y lục vật hành a-luyện-nhã, không lấy thêm vật chi khác. Phật liền tán thán: “Thiện tai, thiện tai! Biết hành trì phép a-luyện-nhã. Phép này của ta là phép thiểu dục, chẳng phải đa d...

49. Vua Biết Đầu Mình Dơ Duốc

Dụ 13. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔有國王,行常過佛為作禮,不避泥雨。傍臣患之,自相與語:「王作意何以煩碎乃爾?」王耳聞之,王還宮勅臣下行求百獸頭及人頭一枚來。臣下白王言已具.王令於市賣之,皆售,人頭不售。臣下白言:「賣百獸頭皆售,此人頭臭爛初無買者。」王語傍臣:「汝曹不解耳祕。前者過佛所,為佛作禮,汝曹言:『王意煩碎。』欲知我頭者,如此死人頭,不潔淨,當以求福可得上天,汝曹愚癡不知,反言煩乎?」傍臣言:「實如大王所說。」叩頭謝過。臣等愚不及王。後復出,臣等皆下馬為佛作禮,以王為法也。 âm Tích hữu quốc vương, hành thường quá Phật vi tác lễ, bất tị nê vũ, bàng thần hoạn chi, tự tương dữ ngữ, vương tác ý hà dĩ phiền toái nãi nhĩ. Vương nhĩ văn chi, vương hoàn cung sắc thần hạ hành cầu bách thú đầu cập nhân đầu nhất mai lai. Thần hạ bạch vương ngôn dĩ cụ, vương lệnh ư thị mại chi. Giai thụ, nhân đầu bất thụ.’ Thần hạ bạch ngôn, ‘Mại bách thú đầu giai thụ, thử nhân đầu xú lạn sơ vô mãi giả.’ Vương ngữ bàng thần, ‘Nhữ tào bất giải nhĩ bí. Tiền giả quá Phật sở, vi Phật tác lễ, nhữ tào ngôn vương ý phiền toái. Dục tri ngã đầu giả như thử tử nhân đầu bất khiết tịnh, đương dĩ cầu phúc khả đắc thượng thiên, nhữ tào ngu si bất tri, phản ngôn phiền hồ?’ Bàng thần ngôn, ‘Thật như đại vương sở thuyết.’ Khấu đầu tạ quá, ‘thần ...