Thuở xưa, đại để tử của Phật là Sariputra xuất gia không lâu thì dứt hết phiền não, chứng A La Hán quả. Các tì khưu khác thấy lạ và hiếu kì, mới nói với Thế Tôn: ‘Sariputra quá khứ làm gì mà đời này có được lợi trí thông minh như thế, chứng đắc vô nghi hoặc trí như vậy?’
Phật đáp: ‘Thiện hay ác nghiệp tạo tác trong đời quá khứ, thì quả báo quay lại tự thân. Nay tôi nói rõ cho các ông biết những việc làm trong đời quá khứ của Sariputra, cùng nói cho các ông biết cái đạo lí nhân nào quả ấy.’
Trong đời quá khứ ở một thôn lạc nọ, có một vị Bà La Môn, cưới vợ không lâu thì sinh được một người con trai; một vài năm sau lại sinh được một người con gái. Hai anh em lớn lên, thì cha mẹ già đi rồi mất. Người anh kinh qua cái chết của cha mẹ, muốn đi vào núi rừng ẩn cư, và mang theo người em gái ở cùng. Hai anh em nhặt nhạnh hoa trái mà sống.
Các vị, loài rắn đen (đại hắc xà) có năm thứ họa hoạn, một là đa sân, hai là đa hận, ba là làm ác, bốn là vô ân, năm là hiểm độc. Người nữ cũng có năm thứ tai họa như thế, một là đa sân, hai là đa hận, ba là làm ác, bốn là vô ân, năm là nọc độc. Vì sao nói người nữ hiểm độc? Vì họ ôm ấp nhiều tham ái. Người em gái khi trưởng thành, thì tâm tham ái ngũ dục cũng ngày càng lớn mạnh, mới nói với người anh: ‘Em nay không thể cứ ăn cây trái mà sống được, em muốn vô chỗ người ta ở để kiếm ăn.’ Người anh thương em, nên dắt người em ra khỏi chỗ núi rừng tới một nhà Bà La Môn xin đồ ăn.
Anh em cùng kêu cửa, chủ nhân nghe tiếng bước ra thấy hai người, hỏi: ‘Ẩn cư cũng có vợ con sao?’ Người anh đáp: ‘Không phải vợ, em gái tôi đó.’ Bà La Môn lại hỏi: ‘Em gái ông đã hứa hôn cho ai chưa?’ Anh đáp: ‘Chưa.’ Bà La Môn lại hỏi: ‘Nếu vậy sao ông không gả em gái cho tôi?’ Anh đáp: ‘Chúng tôi đã viễn li các pháp tham ái ô nhiễm.’ Người em tham ái ngũ dục, liền nói với anh: ‘Sao em cứ phải ở chỗ rừng núi, lượm lặt hoa quả mà sống qua ngày?’ Em nay không chịu được lối sống đó nữa, anh hãy gả em cho vị Bà La Môn này đi! Mong anh cũng ra khỏi núi rừng mà sống với nhân quần.’ Người anh nói với em: ‘Anh thật không muốn gả em cho ông Bà La Môn. Chẳng qua do em luyến tiếc thế tục, nên đành chìu ý em thôi.’
Bà La Môn hiểu ý người em gái, đưa cô vào hội kiến tông thân, cưới làm vợ, rồi nói với người anh: ‘Anh ở đây với chúng tôi đi, tôi sẽ soạn riêng cho anh một phòng.’ Người anh nói: ‘Tôi không cầu khoái lạc ngũ dục, chỉ vui đời xuất gia tu hành.’ Người em nói: ‘Chi mong anh đáp ứng một yêu cầu của em, rồi thì tùy anh quyết.’ Người anh hỏi: ‘Yêu cầu thế nào?’ Em nói: ‘Nếu anh chứng đắc thắng quả, nhất định phải về gặp em.’ Anh nói: ‘Được. Anh sẽ đáp ứng nguyện vọng của em.’ Nói xong ra đi, tìm tới một vị ẩn sĩ rồi theo ông ấy tu hành.
Người anh do thiện căn đời trước thâm hậu, không thầy mà chứng ngộ được ba mươi bảy phẩm trợ đạo, rồi chứng đắc vị độc giác, trong lòng nghĩ: ‘Ta từng chịu lời em gái, chứng quả rồi sẽ về gặp nó, nay sẽ đi.’ Nói rồi dùng thần thông lực đi tới chỗ người em gái, bay lên hư không, triển hiện thần thông, thân trên xuất lửa, dưới chân xuất nước, thiên biến vạn hóa, xong rồi lại đảo thân trên không mà đáp xuống. Người em thấy anh trai triển hiện thần thông liền rạp người đỉnh lễ nói: ‘Anh tuy chứng đắc quả vị thù diệu như vậy, nhưng cũng phải lấy ẩm thực mà nuôi dưỡng sắc thân. Em muốn cung dưỡng anh để thêm phúc, mong anh ở lại với em.’ Người anh nói với em: ‘Em không nên tự tác chủ ý, nên hỏi ý chồng.’ Người em liền vô hỏi ý chồng: ‘Anh tôi xuất gia, đã chứng đắc diệu quả, là thế gian đệ nhất. Nếu ông đáp ứng lời tôi, thì tôi muốn giữ anh ba tháng để chu cấp.’ Người chồng đáp: ‘Anh của cô nếu không muốn xuất gia tôi cũng tự nguyện chu cấp cho ông ấy. Huống chi là ông ấy đã xuất gia, lại chứng đắc quả vị thánh nhân. Nên tùy ý cô, cứ giữ ông ấy lại ba tháng.’
Trong ba tháng ấy, người em gái đãi người anh những món quý hiếm. Chẳng bao lâu mà hết ba tháng, người em lại tặng cho anh một tấm giạ trắng thượng đẳng, một con dao và một cái kim. Người anh lấy dao cắt tấm giạ trắng, ngọn dao rất bén, cắt gọn tấm giạ. Người em nhìn thấy, liền cúi người phát nguyện: ‘Nguyện căn tính của em được như lưỡi dao này. Suy xét nhạy bén thông tuệ, đến thời vị lai, có thể thành tựu trí tuệ mẫn nhuệ.’ Người anh lại tiếp tục may chế áo giạ, dùng mũi kim rất khéo, may thành áo mà không vấp vướng. Người em thấy vậy liền phát nguyện: ‘Nguyện em từ nay cho tới vị lai, trí tuệ sẽ như cây kim này, thông đạt vô ngại.’
Phật nói với các vị tì khưu: ‘Vợ của ông Bà La Môn ấy chính là tiền thân của Sariputra. Do quá khứ cung kính tặng cho vị độc giác thánh nhân lưỡi dao, mũi kim, và tấm giạ trắng, lại phát nguyện mạnh mẽ mà đời nay có được trí tuệ đệ nhất. Các vị, làm ác tất chịu ác báo, làm lành tất có thiện căn. Đạo lí nhân quả đó, các ông nên tin theo mà phụng hành.’
Phật đáp: ‘Thiện hay ác nghiệp tạo tác trong đời quá khứ, thì quả báo quay lại tự thân. Nay tôi nói rõ cho các ông biết những việc làm trong đời quá khứ của Sariputra, cùng nói cho các ông biết cái đạo lí nhân nào quả ấy.’
Trong đời quá khứ ở một thôn lạc nọ, có một vị Bà La Môn, cưới vợ không lâu thì sinh được một người con trai; một vài năm sau lại sinh được một người con gái. Hai anh em lớn lên, thì cha mẹ già đi rồi mất. Người anh kinh qua cái chết của cha mẹ, muốn đi vào núi rừng ẩn cư, và mang theo người em gái ở cùng. Hai anh em nhặt nhạnh hoa trái mà sống.
Các vị, loài rắn đen (đại hắc xà) có năm thứ họa hoạn, một là đa sân, hai là đa hận, ba là làm ác, bốn là vô ân, năm là hiểm độc. Người nữ cũng có năm thứ tai họa như thế, một là đa sân, hai là đa hận, ba là làm ác, bốn là vô ân, năm là nọc độc. Vì sao nói người nữ hiểm độc? Vì họ ôm ấp nhiều tham ái. Người em gái khi trưởng thành, thì tâm tham ái ngũ dục cũng ngày càng lớn mạnh, mới nói với người anh: ‘Em nay không thể cứ ăn cây trái mà sống được, em muốn vô chỗ người ta ở để kiếm ăn.’ Người anh thương em, nên dắt người em ra khỏi chỗ núi rừng tới một nhà Bà La Môn xin đồ ăn.
Anh em cùng kêu cửa, chủ nhân nghe tiếng bước ra thấy hai người, hỏi: ‘Ẩn cư cũng có vợ con sao?’ Người anh đáp: ‘Không phải vợ, em gái tôi đó.’ Bà La Môn lại hỏi: ‘Em gái ông đã hứa hôn cho ai chưa?’ Anh đáp: ‘Chưa.’ Bà La Môn lại hỏi: ‘Nếu vậy sao ông không gả em gái cho tôi?’ Anh đáp: ‘Chúng tôi đã viễn li các pháp tham ái ô nhiễm.’ Người em tham ái ngũ dục, liền nói với anh: ‘Sao em cứ phải ở chỗ rừng núi, lượm lặt hoa quả mà sống qua ngày?’ Em nay không chịu được lối sống đó nữa, anh hãy gả em cho vị Bà La Môn này đi! Mong anh cũng ra khỏi núi rừng mà sống với nhân quần.’ Người anh nói với em: ‘Anh thật không muốn gả em cho ông Bà La Môn. Chẳng qua do em luyến tiếc thế tục, nên đành chìu ý em thôi.’
Bà La Môn hiểu ý người em gái, đưa cô vào hội kiến tông thân, cưới làm vợ, rồi nói với người anh: ‘Anh ở đây với chúng tôi đi, tôi sẽ soạn riêng cho anh một phòng.’ Người anh nói: ‘Tôi không cầu khoái lạc ngũ dục, chỉ vui đời xuất gia tu hành.’ Người em nói: ‘Chi mong anh đáp ứng một yêu cầu của em, rồi thì tùy anh quyết.’ Người anh hỏi: ‘Yêu cầu thế nào?’ Em nói: ‘Nếu anh chứng đắc thắng quả, nhất định phải về gặp em.’ Anh nói: ‘Được. Anh sẽ đáp ứng nguyện vọng của em.’ Nói xong ra đi, tìm tới một vị ẩn sĩ rồi theo ông ấy tu hành.
Người anh do thiện căn đời trước thâm hậu, không thầy mà chứng ngộ được ba mươi bảy phẩm trợ đạo, rồi chứng đắc vị độc giác, trong lòng nghĩ: ‘Ta từng chịu lời em gái, chứng quả rồi sẽ về gặp nó, nay sẽ đi.’ Nói rồi dùng thần thông lực đi tới chỗ người em gái, bay lên hư không, triển hiện thần thông, thân trên xuất lửa, dưới chân xuất nước, thiên biến vạn hóa, xong rồi lại đảo thân trên không mà đáp xuống. Người em thấy anh trai triển hiện thần thông liền rạp người đỉnh lễ nói: ‘Anh tuy chứng đắc quả vị thù diệu như vậy, nhưng cũng phải lấy ẩm thực mà nuôi dưỡng sắc thân. Em muốn cung dưỡng anh để thêm phúc, mong anh ở lại với em.’ Người anh nói với em: ‘Em không nên tự tác chủ ý, nên hỏi ý chồng.’ Người em liền vô hỏi ý chồng: ‘Anh tôi xuất gia, đã chứng đắc diệu quả, là thế gian đệ nhất. Nếu ông đáp ứng lời tôi, thì tôi muốn giữ anh ba tháng để chu cấp.’ Người chồng đáp: ‘Anh của cô nếu không muốn xuất gia tôi cũng tự nguyện chu cấp cho ông ấy. Huống chi là ông ấy đã xuất gia, lại chứng đắc quả vị thánh nhân. Nên tùy ý cô, cứ giữ ông ấy lại ba tháng.’
Trong ba tháng ấy, người em gái đãi người anh những món quý hiếm. Chẳng bao lâu mà hết ba tháng, người em lại tặng cho anh một tấm giạ trắng thượng đẳng, một con dao và một cái kim. Người anh lấy dao cắt tấm giạ trắng, ngọn dao rất bén, cắt gọn tấm giạ. Người em nhìn thấy, liền cúi người phát nguyện: ‘Nguyện căn tính của em được như lưỡi dao này. Suy xét nhạy bén thông tuệ, đến thời vị lai, có thể thành tựu trí tuệ mẫn nhuệ.’ Người anh lại tiếp tục may chế áo giạ, dùng mũi kim rất khéo, may thành áo mà không vấp vướng. Người em thấy vậy liền phát nguyện: ‘Nguyện em từ nay cho tới vị lai, trí tuệ sẽ như cây kim này, thông đạt vô ngại.’
Phật nói với các vị tì khưu: ‘Vợ của ông Bà La Môn ấy chính là tiền thân của Sariputra. Do quá khứ cung kính tặng cho vị độc giác thánh nhân lưỡi dao, mũi kim, và tấm giạ trắng, lại phát nguyện mạnh mẽ mà đời nay có được trí tuệ đệ nhất. Các vị, làm ác tất chịu ác báo, làm lành tất có thiện căn. Đạo lí nhân quả đó, các ông nên tin theo mà phụng hành.’
Comments
Post a Comment