Dụ 12. Tạp Thí Dụ Kinh
Xưa nước Xá-vệ có vị phạm-chí trưởng giả xuất thành du hí, đi lần lần thì tới gần vườn Kì-hoàn. Phật biết vị này đầy đủ công đức có thể độ, bèn ra ngồi dưới một cội cây phóng đại quang minh chiếu sáng khắp vườn Kì-hoàn, gỗ, đất và đá đều sáng lên kim sắc. Phạm-chí thấy ánh sáng, hỏi tùy tùng, ‘Ánh sáng chi rứa?’ Tùy tùng nói không biết. Phạm-chí trưởng giả hỏi, ‘Phải nắng không?’ Tùy tùng đáp, ‘Nắng thì nóng, còn ánh sáng ni mát mẻ dễ chịu. Không phải nắng mô!’ Trưởng giả lại hỏi, ‘Hay là lửa cháy sáng?’ Tùy tùng đáp, ‘Không phải lửa cháy sáng, lửa dao động bất định, còn ánh sáng ni rọi đều, không giống lửa cháy tí mô hết!’ Người tùy tùng ngẫm nghĩ một lát thì ra, thưa trưởng giả rằng, ‘Đó là ánh sáng trí tuệ của sa-môn Cù-đàm!’ Trưởng giả liền mắng, ‘Đừng có nói rứa! Tau không thích ông Cù-đàm, mau quay xe về.’ Phật liền thị hiện thần thông, ba phía tự nhiên biến thành khe lớn, trưởng giả không đi được, chỉ có phía trước mặt Phật là còn đường đi. Kẻ tùy tùng thưa trưởng giả, ‘Chỉ có phía Cù-đàm là còn đường đi được! Bất đắc dĩ cũng phải đi!’ Vậy là phải đi, từ xa thấy Như Lai thì lấy quạt che mặt mình lại. Phật lại dùng uy thần khiến trước sau cánh quạt đều có mắt Phật, rứa là phạm-chí và Phật hai bên thấy mặt nhau. Phạm-chí hoát nhiên liễu ngộ, xuống xe cúi đầu tác lễ Phật. Phật thuyết pháp cho, trưởng giả phát nguyện cầu vô thượng đạo, ngay lúc nớ đắc bất thoái chuyển. Quay lưng với Phật còn đắc đạo tuệ, huống là có tín tâm hướng về Phật cầu đạo.
Văn
昔舍衛國梵志、長者出城遊戲,展轉到祇桓邊。佛知其人有功德可度,佛即出坐一樹下,放大光明照祇桓界,樹木土石皆作金色。梵志見光,問從者曰:「此為何光乎?」從者答曰:「不知。」長者曰:「非是日光耶?」從人言:「日者光熱,此光寒涼和調,非日光矣!」長者復問曰:「得無火光乎?」從人曰:「非火光,火者動搖不定,此光澤然,不像火光也!」從人思惟知之,語長者:「此是沙門瞿曇道德之光!」長者即曰:「勿說此!吾不喜瞿曇,速迴車還。」佛便作變化,三面皆自然有大㵎,所向不得過,唯於佛前有道徑。從人白言:「瞿曇邊有道過矣!事不得已。」如前,遙見如來,即以扇覆面;佛復以威神,使內外徹舉目,故與佛相見。悟覺,下車,稽首作禮。佛與說法,便發無上正真道意,尋得不退轉。背佛去者尚得道慧,何況信向者哉。
Âm
Tích Xá-vệ-quốc phạm-chí, trưởng giả xuất thành du hí, triển chuyển đáo Kì-hoàn biên. Phật tri kì nhân hữu công đức khả độ, Phật tức xuất toạ nhất thụ hạ, phóng đại quang minh chiếu Kì-hoàn giới, thụ mộc thổ thạch giai tác kim sắc. Phạm-chí kiến quang, vấn tùng giả viết, ‘Thử vi hà quang hồ?’ Tùng giả đáp viết, ‘Bất tri.’ Trưởng giả viết, ‘Phi thị nhật quang gia?’ Tùng nhân ngôn, ‘Nhật giả quang nhiệt, thử quang hàn lương hoà điệu, phi nhật quang hĩ! ‘ Trưởng giả phục vấn viết, ‘Đắc vô hoả quang hồ?’ Tùng nhân viết, ‘Phi hoả quang, hoả giả động dao bất định, thử quang trạch nhiên, bất tượng hoả quang dã!’ Tùng nhân tư duy tri chi, ngứ trưởng giả, ‘Thử thị sa-môn Cù-đàm đạo đức chi quang!’ Trưởng giả tức viết, ‘Vật thuyết thử! Ngô bất hỉ Cù-đàm, tốc hồi xa hoàn.’ Phật tiện tác biến hoá, tam diện giai tự nhiên hữu đại giản, sở hướng bất đắc quá, duy ư Phật tiền hữu đạo kính. Tùng nhân bạch ngôn, ‘Cù-đàm biên hữu đạo quá hĩ! Sự bất đắc dĩ.’ Như tiền, diêu kiến Như Lai, tức dĩ phiến phúc diện; Phật phục dĩ uy thần, sử nội ngoại triệt cử mục, cố dữ Phật tương kiến. Ngộ giác, hạ xa, khể thủ tác lễ. Phật dữ thuyết pháp, tiện phát vô thượng chính chân đạo ý, tầm đắc bất thoái chuyển. Bối Phật khứ giả thượng đắc đạo tuệ, hà huống tín hướng giả tai.
雜譬喻經
Comments
Post a Comment