Skip to main content

43. Uy Nghi Của Sa-môn (Cựu Tạp Thí Dụ Kinh)

Dụ 43. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh

A. 
Có tì-khâu đi phân-vệ, giữa đường bí quá phải dừng lại tè ngay tại chỗ. Người đi đường thấy vậy ai cũng cười chê rằng, ‘Đệ tử Phật đi đứng đều có pháp độ, áo quần uy nghi, còn vị tì-khâu này đứng đâu tè đó, thật là đáng cười.’ Lúc ấy có một ngoại đạo thuộc phái Ni-kiền thấy người ta cười vị tì-khâu đó, liền nghĩ bụng rằng, ‘Phái Ni-kiền bọn ta lỏa thân đi mà không ai hỏi han, đệ tử Phật đứng đái thì ai cũng cười. Như vậy tức là thầy bọn ta không có pháp tắc, cho nên không ai cười. Chỉ có pháp tắc của đệ tử Phật là thanh tịnh, có lễ nghi, ta sẽ theo pháp của họ lấy làm giáo chỉ.’ Nghĩ vậy xong tới chỗ Phật quy y làm sa-môn, lập tức đắc tu-đà-hoàn. 
Tì-khâu giống như sư tử vua các loài thú, như bậc thầy giữa chúng nhân mà lời nói của bậc thầy ấy đáng nghe theo, vì vậy mà đi đứng nằm ngồi đều phải có uy nghi, làm pháp tắc cho chúng nhân, chớ tự khinh mình, tự khinh tự hủy tức là làm nhục bổn sư của mình. 
Thiên Vương Đế Thích và đệ nhất thiên vương trong Tứ Thiên vương vào ngày mười lăm ba lần quan sát thiên hạ để xem người nào trì giới. Thấy người trì giới, các vị thiên vương rất mừng. Sau đó cứ vào ngày mười lăm thì Thiên Vương Đế Thích ra chánh điện ngồi, trong lòng nghĩ rằng, ‘Thiên hạ nếu có người vào ngày mười lăm ba lần trì trai thì thọ chung có thể đắc được chỗ của ta.’ Chư thiên ở bên cạnh đại kinh, rằng, ‘Chỉ cần ngày mười lăm ba lần trì trai thì sẽ đắc lên vị trí như Đế Thích.’ Có tì-khâu đã đắc A-la-hán nên biết tâm niệm của Đế Thích, hỏi Phật, ‘Có đúng như lời Đế Thích nói không?’ Phật đáp, ‘Lời Đế Thích nói bất khả tín, vì nói không đúng sự thật. Vì sao? Ngày mười lăm kẻ nào tinh tiến trì trai ba lần thì có thể đắc khả năng độ thế, chứ đắc lên chỗ Đế Thích mà làm chi? Như vậy là nói không đúng sự thật, cho nên chưa đủ để tin.’ Ai là người biết được sức báo thù thắng của trai giới, chỉ có Phật thôi.

Văn

有比丘分衛,道住促迫卒失小便,行人見之,皆共譏笑言:「佛弟子行步有法度,被服有威儀,而此比丘立住失小便,甚可笑也。」時有外行尼揵種,見人譏笑此比丘,即自念言:「我曹尼揵種裸身而行,都無問者;佛弟子住小便,而人皆共笑之。如是者,我曹師為無法則,故人不笑耳。將獨佛弟子法清淨、有禮儀,易為論議故。」便自歸佛所作沙門,即得須陀洹。比丘譬如師子眾獸中王,人中師所語當用法,行步坐起當有威儀,為人法則不得自輕,自輕自毀以辱先賢也。

天王釋及第一四天王,十五日三視天下,誰持戒者?見持戒者,天即歡喜。時以十五日,天王釋在正殿坐處,自念言:「天下若十五日三齋者,壽終可得吾位矣。」邊諸天大驚言:「但十五日三齋,乃得如釋處。」有比丘已得阿羅漢,即知釋心念,白佛言:「寧能審如釋語不?」佛言:「釋語不可信,為不諦說。何以故?十五日三齋精進者,可得度世,何為釋處?如是為不諦說,為未足信。誰能知齋福者,唯佛耳?」

Âm

a. Hữu tì-khâu phân-vệ, đạo trụ xúc bách tốt thất tiểu tiện, hành nhân kiến chi, giai cộng ki tiếu ngôn, ‘Phật đệ tử hành bộ hữu pháp độ, bị phục hữu uy nghi, nhi thử tì-khâu lập trụ thất tiểu tiện, thậm khả tiếu dã.’ Thời hữu ngoại hạnh Ni-kiền chủng, kiến nhân ki tiếu thử tì-khâu, tức tự niệm ngôn, ‘Ngã tào Ni-kiền chủng lỏa thân nhi hành, đô vô vấn giả, Phật đệ tử trụ tiểu tiện, nhi nhân giai cộng tiếu chi. Như thị giả, ngã tào sư vi vô pháp tắc, cố nhân bất tiếu nhĩ. Tương độc Phật đệ tử pháp thanh tịnh, hữu lễ nghi, dịch vi luận nghị cố.’ Tiện tự quy Phật sở tác sa-môn, tức đắc tu-đà-hoàn.

Tì-khâu thí như sư tử chúng thú trung vương, nhân trung sư sở ngữ đương dụng pháp, hành bộ tọa khởi đương hữu uy nghi, vi nhân pháp tắc bất đắc tự khinh, tự khinh tự hủy dĩ nhục tiên hiền dã.

b. Thiên Vương Thích cập đệ nhất Tứ Thiên vương, thập ngũ nhật tam thị thiên hạ, thùy trì giới giả. Kiến trì giới giả, thiên tức hoan hỉ. Thời dĩ thập ngũ nhật, Thiên Vương Thích tại chánh điện tọa xứ, tự niệm ngôn, ‘Thiên hạ nhược thập ngũ nhật tam trai giả, thọ chung khả đắc ngô vị hĩ.’ Biên chư thiên đại kinh ngôn, ‘Đãn thập ngũ nhật tam trai, nãi đắc như thích xứ.’ Hữu tì-khâu dĩ đắc A-la-hán, tức tri Thích tâm niệm, bạch Phật ngôn, ‘Ninh năng thẩm như Thích ngữ bất?’ Phật ngôn, ‘Thích ngữ bất khả tín, vi bất đế thuyết. Hà dĩ cố? Thập ngũ nhật tam trai tinh tiến giả, khả đắc độ thế, hà vi Thích xứ? Như thị vi bất đế thuyết, vi vị túc tín.’ Thùy năng tri trai phúc giả, duy Phật nhĩ.

Comments

Popular Posts

41. Nhị Quỷ Tranh Bửu Bối (Bách Dụ Kinh)

Bách Dụ Kinh, Dụ thứ 41 Xưa có hai con quỷ đói chung nhau một cái rương nhỏ, một cây gậy và một chiếc guốc. Chúng nảy ra tranh chấp, con nào cũng muốn được ý mình, cãi cọ kịch liệt hết ngày mà không phân xử được. Lúc ấy có người đi tới thấy vậy hỏi, ‘Cái rương, cây gậy và chiếc guốc có chi kì dị mà chúng mày tranh chấp ghê vậy?’ Quỷ đáp, ‘Cái rương này của bọn tao có thể xuất ra đủ thứ, áo quần, ăn uống, giường đệm, ngọa cụ; hết thảy những thứ vật dụng hàng ngày đều từ nó mà ra. Cầm cây gậy này thì oán địch sẽ quy phục, không dám tranh với mình nữa. Mang chiếc guốc này thì có thể khiến người ta bay đi không quái ngại.’ Người ấy nghe thế liền bảo hai con quỷ, ‘Hai đứa bây tránh ra một chút, để tao chia đều cho.’ Bọn quỷ nghe nói vậy liền tránh ra xa. Người ấy ngay tức khắc ôm rương, chụp lấy gậy và xỏ guốc bay mất, hai con quỷ ngơ ngác, tranh nhau cuối cùng không được chi. Người kia nói với quỷ ‘Những thứ bọn bây tranh nhau ta lấy đi hết rồi, bây giờ không có chi phải tranh đoạt nhau nữ...

55. Xá-lợi-phất Đi Thăm Phật Duy-vệ

Dụ 55. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔佛遣舍利弗,西至維衛莊嚴剎土,問訊彼佛三事:「佛身安隱不?說法如常不?受者增進不?」舍利弗即承佛威神往詣彼剎,宣令如是。彼佛報言:「皆悉安隱。」於時彼佛轉阿惟越致輪,為七住菩薩說法,舍利弗聞之,從彼剎還,姿色光明行步勝常。佛告舍利弗:「汝到彼,何故侅步怡悅如是。」舍利弗白佛言:「譬如貧家飢凍之人得大珍寶如須彌山,寧歡喜不?」佛言:「甚善!」舍利弗言:「我到彼剎,得聞彼佛說阿惟越致深奧之事,是以欣踊不能自勝。」佛言:「善哉!如汝所言。」佛語舍利弗:「譬如長者大迦羅越,純以紫磨金、摩尼珠為寶,內有掃除銅鐵鉛錫 棄在於外糞壤之中,有貧匱者喜得持歸,言我大得迦羅越寶,寧是長者珍妙寶非?」答言:「非也。」佛語舍利弗:「汝所聞得,如是貧者,彼佛所說但十住事及在舉中清淨之者 ,汝所聞者不足言耳。」舍利弗即愁毒,如言我謂得寶,反是鉛錫。舍利弗說是事時,無央數人皆發無上平等度意,無央數人得阿惟顏住也。 Âm  Tích Phật khiển Xá-lợi-phất, tây chí Duy-vệ trang nghiêm sát thổ, vấn tấn bỉ Phật tam sự, ‘Phật thân an ẩn bất? Thuyết pháp như thường bất? Thụ giả tăng tiến bất?’ Xá-lợi-phất tức thừa Phật uy thần vãng nghệ bỉ sát, tuyên lệnh như thị. Bỉ Phật báo ngôn giai tất an ẩn. Ư thời bỉ Phật chuyển a-duy-việt-trí luân, vi thất trụ bồ-tát thuyết pháp, Xá-lợi-phất văn chi, tòng bỉ sát hoàn, tư sắc quang minh hành bộ thắng thường. Phật cáo Xá-lợi-phất, ‘Nhữ đáo bỉ, hà cố ? bộ di duyệt như thị?’ Xá-lợi-phất bạch Phật ngôn, ‘Thí như bần gia cơ đống chi nhân đắc đại trân...

82. Phật Nói Cho Chúng Tì-khâu Biết Tai Hoạn Của Lợi Dưỡng

Truyện 82. Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 7  Lúc đó Như Lai ở nước Xá-vệ, chán lợi dưỡng. Có một khu rừng sâu tên là Tham Trang Nghiêm, Ngài tránh nạn lợi dưỡng nên đi vào rừng ấy. Trong rừng có chùa, có vị la-hán tên Na-dặc-ca làm tự chủ. Phật tới rừng ấy thì hôm sau nhiều người đem áo tới cúng dường, chật cả khu rừng. Phật nói: “Ta không dùng lợi dưỡng, nhưng lợi dưỡng thường theo ta.” Có một vạn hai ngàn tì-khâu cũng tới chỗ đó. Phật nói chư tì-khâu: “Lợi dưỡng là thứ đại tai hại, thường gây chướng nạn, tới cả la-hán cũng bị lợi dưỡng gây chướng nạn.” Tì-khâu hỏi: “Gây những chướng nạn chi?” Phật đáp: “Lợi dưỡng có những cái hại sau: phá bì, phá nhục, phá cốt, phá tuỷ. Phá như thế nào? Phá da trì giới, thịt thiền định, xương trí tuệ, và tủy thiện tâm vi diệu.” Chư tì-khâu một vạn hai ngàn người đều gom tam y lục vật hành a-luyện-nhã, không lấy thêm vật chi khác. Phật liền tán thán: “Thiện tai, thiện tai! Biết hành trì phép a-luyện-nhã. Phép này của ta là phép thiểu dục, chẳng phải đa d...

36. Nhờ Ăn Trộm Mà Ngộ Đạo

Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, Truyện thứ 36 Xưa trong Phật tự có cái nồi bằng vàng dùng để nấu ngũ vị cho chúng tăng. Lúc ấy có một phàm nhân vô chùa ngắm đồ, thấy cái nồi vàng, muốn trộm lấy nhưng không có duyên cớ, giả làm sa-môn rồi khoác y phục lẫn vào trong chúng tăng. Nghe các vị thượng tọa giảng kinh, luận thuyết những ách yếu về tội phúc, sinh tử và lí nhân duyên quả báo không chạy thoát được. Kẻ trộm trong lòng khai ngộ, lấy làm xấu hổ, dọn lòng chuyên tâm liền thấy vết đạo. Suy ngẫm duyên do, nhận cái nồi là thầy mình, trước hết tác lễ riêng rồi nhiễu quanh nó ba vòng, xong tự đem chuyện ra nói hết cho chúng sa-môn.  Giác ngộ mỗi người một nhân duyên, hễ tâm chuyên nhất thì không ai không thấy chân lí. 09/10/2024 sao thêm nguyên văn và phiên âm 昔佛寺中有金釜,以烹五味供給道人。時有凡人入觀見金釜,欲盜取之,無所因,詐作沙門,被服入眾僧中。聞上座論經,說諸罪福生死證要,影嚮之報不可得離之證。盜人意中開悟,懷慚悔,撰情專心則見道迹。思惟所由,釜是我師,特先禮釜繞之三匝,為眾沙門具自道說。夫覺悟各有所因,心專一者莫不見諦也。 Phiên âm Tích Phật tự trung hữu kim phủ, dĩ phanh ngũ vị cung cấp đạo nhân. Thời hữu phàm nhân nhập...