Skip to main content

11. Chuyện Hai Anh Em Đạo Tục Không Cùng Chí Hướng

Dụ 11. Tạp Thí Dụ Kinh T0204

Xưa có hai anh em con nhà hào phú ở với nhau, vì cha mẹ đều mất, không người nương tựa, tài sản nhiều không đếm xuể. Tuy là anh em nhưng chí hướng mỗi người mỗi khác. Người anh hiếu đạo đức, người em ham gia nghiệp, quan tước, bổng lộc và vinh quang thế tục. Ở cách tinh xá Ba-lợi-phất Kê-minh không xa. Người anh hay đi nghe kinh, học đạo, không dự vào gia nghiệp. Người em thấy anh không thiết gia sự nên thường tỏ ra tức tối, “Anh em với nhau cha mẹ mất sớm thì phải cần khổ làm ăn, đàng này lại phế bỏ gia nghiệp đi theo bọn sa-môn nghe kinh Phật. Sa-môn có cho anh cơm áo, của cải không? Nhà ngày một suy, của cải tiêu hao thì người ta cười cho, họ nói lười biếng không chịu làm ăn để cho cảnh nhà suy vong. Đã làm con thì phải gây dựng, kế thừa công nghiệp của cha mẹ chớ đừng để đứt đoạn, như vậy mới là có hiếu.”
Người anh nói em, “Ngũ giới, thập thiện, phụng sự tam bảo, hành lục độ, tọa thiền định ý, dùng đạo để hóa độ cha mẹ như vậy mới là có hiếu. Đạo tục hai đường trái nhau chẳng qua là số phận dun dủi, cái mà đạo vui thì tục ghét, cái mà tục quý thì đạo cho là hèn. Trí ngu bất đồng chí hướng, cũng như sáng tối không ở chung được. Người hiệt trí tìm cách trừ u minh để cho sáng chân đạo. Niềm vui của em nay là khổ não của anh, nhất thiết giai không, tất cả đều là hư ngụy chẳng phải chân thật. Cứ mải miết theo việc thế tục thì làm sao mà thấy chân tướng cuối cùng là phiền não cay đắng?” Người em ôm tức giận, lắc đầu không tín, người anh thấy vậy nói em, “Em tham gia nghiệp lấy của cải làm quý, anh thích kinh đạo lấy trí tuệ làm của báu. Nay xả tục xuất gia để nương tựa phúc điền, mưu sinh nơi thế tục chóng vánh như bụi bay, vô thường tới bất ngờ dễ bị tội chướng trói buộc, vì vậy mà anh xả tục để dứt tội ương cho yên ổn.” Người em thấy người anh nhất quyết quy y đạo nghi nên im lặng không nói chi thêm.
Người anh bỏ nhà đi làm sa-môn, ngày đêm tinh tấn, tụng kinh niệm đạo nhất tâm tọa thiền, tư duy rành rỏi, không hề ngưng nghỉ hay biếng nhác, đắc đầy đủ căn lực, ba mươi bảy phẩm, sở hành hợp với kinh pháp, thành đạo chứng quả. Về nhà khuyên người em phụng pháp rằng, “Ngũ giới thập thiện là gốc sinh lên cõi trời, bố thí tu học là nền đạo tuệ.” Người em nghe những lời đó liền thạnh nộ, đáp anh rằng, “Anh phế cuộc đời, không bồi đắp gia nghiệp, bỏ hoang nhà cửa, anh cứ một mình mà làm, chớ quay về dạy em, mau cút khỏi đây đừng can dự chuyện của em nữa.” Người anh bèn bỏ đi.
Người em đắm đuối gia nghiệp liên miên không dứt, chưa một lần dừng lại để dùng pháp trụ tâm. Sau thọ chung đọa vào loài trâu, nặng nề dị thường, có người khách buôn mua dùng chở muối, nhiều lần trâu kiệt sức không đi nổi. Có lần đường đi có hố, trâu lọt chân xuống, gục xuống không đứng lên được. Nhà buôn đánh roi, trâu chỉ cựa quậy đầu. Người anh du hành trên hư không nhìn từ xa thấy liền tư duy, “Vì sao ra nông nỗi đó?” Quán thấy đầu đuôi, biết đó là em mình nên nói với em, “Em chỉ biết chạy theo nhà cửa ruộng đất lấy đó làm vui, nay thì tới đâu? Vì vậy mà đầu sinh vào loài trâu súc sinh.” Người anh dùng uy thần chiếu sáng bổn mệnh cho, trâu biết bổn mệnh của mình, rơi lệ, tự trách mình hạnh nghiệp bất thiện, tham lam tật đố, không tín Phật pháp, khinh mạn thánh chúng, buông thả tâm ý, không nghe lời anh, vi nghịch thánh giáo, ôm giữ tà kiến mà cố chấp. Vì vậy mà đọa vào loài trâu khốn đốn hạ tiện, bây giờ hối hận thì được chi?
Người anh biết tâm niệm em nên thương xót, kể cho chủ trâu nghe hết đầu đuôi, “Đó là em tôi, không tín tam bảo, quay lưng lại với chân thật để chạy theo tà ngụy, tham lam tật đố phóng túng đa cầu không biết bố thí, đọa vào loài trâu, bây giờ tàn phế khốn cùng thật đáng thương. Bây giờ nó già rồi, không còn dùng được nữa, xin cho tôi đem về cứu cái tàn mệnh của nó.” Thương chủ nghe vậy bèn cho đi. Người anh dắt trâu về tự viện, dạy cho niệm tam bảo và tùy thời cho ăn. Mệnh chung sinh lên Đao-lợi thiên.
Lúc ấy những thương chủ khác đều nhủ rằng, “Chúng ta ham kiếm ăn không biết chán. Không năng bố thí lại không phụng pháp, không biết chi về đạo. Chết rồi sợ tránh không được mà đọa vào loài súc sinh.” Bèn bỏ lại nhà cửa, lìa vợ con, cho hết của cải, đi tu làm sa-môn tinh tiến dũng mãnh, đều đắc đạo hết.
Do vậy mà quán thấy, tài bảo thế gian không có lợi cho người, phụng kính tam tôn, tu thân, học tuệ, bác văn, hành đạo thì đời đời được yên ổn.
    

Văn

世間財寶不益於人,奉敬三尊修身學慧博聞行道世世獲安。   
Thế gian tài bảo bất ích ư nhân, phụng kính tam tôn tu thân học tuệ bác văn hành đạo thế thế hoạch an.  

雜譬喻經 T0204

Comments

Popular Posts

21. Chuyện Người Con Gái Xinh Đẹp Của Vua Ba-tư-nặc

Truyện 21. Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 2.  Xưa vua Ba-tư-nặc có một người con gái tên là Thiện Quang, thông minh đoan chánh, cha mẹ thương yêu, toàn cung ái kính. Vua cha nói nàng, “Con nhờ sức cha mà được toàn cung ái kính.” Con gái đáp cha rằng, “Con có nghiệp lực, chứ không nhờ sức cha.” Hỏi như vậy ba lần đều đáp như trước. Lúc ấy vua tức giận nói rằng, “Nay ta muốn thử coi con có dựa vào nghiệp lực mình không. Không có cái gọi là nghiệp lực.” Ra lệnh cho tả hữu vô tìm khắp trong thành ấy một người ăn mày nghèo rốt. Quan lính theo lệnh vua đi tìm, được một người hạ tiện dắt về gặp vua. Vua liền lấy con gái Thiện Quang trao phó cho kẻ hạ tiện ấy. Vua nói con gái, “Nếu con có nghiệp lực riêng của mình chứ không nhờ vào ta, từ nay trở đi để nghiệm coi là biết.” Thiện Quang vẫn đáp, “Con có nghiệp lực.” Rồi cùng với cùng nhân dắt nhau ra đi. Hỏi chồng rằng, “Anh trước đây có cha mẹ không?” Cùng nhân đáp, “Cha tôi trước đây là đệ nhất trưởng giả trong thành Xá-vệ, cha mẹ trong nhà đều đã qu

74. Phật Kể Chuyện Ngày Trước Độ Các Ông A-nặc Kiều-trần-như

Truyện 74, Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 6  Phật ở thành Vương Xá thuyết pháp độ A Nặc Kiều Trần Như, Thích Đề Hoàn Nhân, và vua Tần Bà Sa La. Mấy ông ấy mỗi người dắt theo tám vạn bốn ngàn người, tất cả đều đắc đạo. Chư tì-khâu lấy làm lạ từng ấy người được dứt hẳn ba đường ác. Phật nói, “Chẳng những ngày nay thôi, trong đời quá khứ cũng đã từng tế bạt họ.”  Chư tì-khâu hỏi, “Chuyện tế bạt trong đời trước đó như thế nào?”  Phật kể, “Trong đời quá khứ có một đoàn người đi buôn, họ ra biển tìm báu vật, trên đường về tới một cách đồng lớn thì gặp mãng xà, mãng xà thân ngóc lên cao sáu câu-lâu-xá, vây quanh đoàn thương nhân, bốn phía đều phong tỏa không có lối thoát. Đoàn thương nhân trong bụng kinh hãi, ai nấy đều kêu lên, ‘Thiên thần địa thần có lòng từ bi xin cứu chúng tôi.’ Lúc ấy có voi trắng với sư tử đi tới, sư tử nhảy tới đánh dập đầu mãng xà, khiến cho đoàn thương nhân thoát đại nạn. Mãng xà kịp phun độc trong miệng thương hại sư tử và cả voi trắng. Lúc sư tử và voi trắng mạng sống vẫn

34. Quán Vô Thường Là Thuốc Trị Nhiều Bệnh

Dụ 34. Tạp Thí Dụ Kinh T0207 Thiên hạ thảo mộc đều làm thuốc được, chẳng qua do không sành sỏi nên không biết mà thôi. Xưa có thánh y vương tên là Kì-vực, năng hòa hợp dược thảo làm hình đồng tử, ai thấy cũng vui mừng, chúng bệnh đều khỏi. Hoặc lấy một loại cỏ trị chúng bệnh, hoặc lấy nhiều loại cỏ trị nhất bệnh, cỏ trong thiên hạ không loài nào không có chỗ dùng, bệnh trong thiên hạ không bệnh nào không trị được. Kì-vực mệnh chung, thiên hạ dược thảo cùng lúc khóc, đồng thanh, ‘Tôi dùng trị bệnh được, chỉ có Kì-vực mới biết rõ tôi mà thôi. Kì-vực chết rồi không có ai biết tôi nữa, người đời sau hoặc dùng sai, hoặc tăng hoặc giảm khiến bệnh không khỏi, làm cho người trên đời cho tôi không có thần hiệu, vì nghĩ như vậy mà khóc.’ Chỉ có một loài là ha-lê-lặc ở riêng một chỗ là không khóc, nó tự nhủ rằng, ‘Tôi trị được chúng bệnh, người nào uống tôi thì bệnh lành, không uống tôi thì không thể tự lành, không cần người ta phải biết mình nên không khóc.’  Kì-vực dụ cho Phật, chúng dược thảo

84. Người Cụt Tay Chân Cảm Ân Phật Mà Sinh Lên Cõi Trời

Truyện 84, Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 7  Xưa  nước Xá-vệ có người phạm vào vương pháp, bị chặt hết tay chân, vứt bỏ đầu đường. Phật đi đường nhìn thấy, tới bên hỏi, “Ngươi bây giờ khổ chi nhất?” Người cụt đáp, “Khổ nhất là đói.” Liền sai A-nan đem cơm cho. Người cụt mệnh chung sinh lên cõi trời, cảm ơn sâu dày của Phật, xuống cung dưỡng Phật, Phật thuyết pháp cho, đắc tu-đà-hoàn.  Tì-khâu hỏi Phật, “Nhờ nghiệp hạnh chi mà sinh lên cõi trời?” Phật kể, “Người ấy trước ở trong cõi người bị chặt tay chân, vứt bỏ ngoài đường. Phật tới bên, sai đồ đệ đưa cơm cho, người ấy lòng vui mừng, mệnh chung sinh lên cõi trời, lại xuống chỗ ta nghe pháp mà đắc đạo.”     Văn 刖手足人感念佛恩而得生天緣 昔舍衛國,有人犯於王法,截其手足,擲著道頭。佛行見之,即往到邊,而問言曰:「汝於今日,以何為苦?」刖人答言:「我最苦餓。」即勅阿難,使與彼食。其刖人命終生天,感佛厚恩,來下供養,佛為說法,得須陀洹。 比丘問言:「以何業行,生於天上?」 佛言:「昔在人中,被刖手足擲於道頭,佛到其所,勅與其食,心生歡喜,命終生天,重於我所,聞法得道。」 Âm. Ngoạt Thủ Túc Nhân Cảm Niệm Phật Ân Nhi Đắc Sinh Thiên Duyên Tích Xá-vệ quốc, hữu nhân phạm ư vương pháp, tiệt kì thủ túc, trịch trước đạo đầu. Phật hà