Skip to main content

Phẩm I. Vô Thường (無常)

無常品者,欲昏亂,榮命難保,唯道是真。

Đại ý phẩm Vô Thường là, hãy tỉnh thức, chớ để cho dục làm cho tâm mờ mịt, hỗn loạn; sinh mạng khó giữ, chỉ có đạo là chân thật.

Phẩm I có 21 kệ.

Nghĩa

Nguyên văn và phiên âm

1. Ai mê ngủ hãy tỉnh dậy, nên vui vẻ tư duy, lắng nghe lời ta dạy là lời ghi chép lời của Bậc Giác Ngộ.

2. Mọi hành đều không trường tồn, cho nên gọi là pháp hưng suy; có sinh thì có tử, dứt hết sinh tử là vui.

3. Thí như nhà làm gốm lấy đất sét ngoài đồng làm đồ dùng, nhưng đồ nào thì cũng phải có lúc hư hoại, đời người cũng như thế.

4. Như nước sông trôi chảy, đã qua thì không trở lại, đời người cũng như thế, người đã ra đi không trở lại.

5. Như người cầm gậy lùa trâu đi ăn, già chết cũng xua sinh mệnh người ta đi như thế.

6. Trăm ngàn người như một, họ hàng con cái, của cải tích cóp, thảy không có gì là không suy hoại.

7. Sinh mạng ngày đêm tự hao đi cho đến lúc hết tuổi thọ, hệt như nước mưa bốc hơi bay lên.

8. Lâu dài mấy cũng đến lúc hết, cao mấy cũng có lúc rớt,

9. - hội hợp thì có chia li, có sinh thì có chết,

10. - chúng sinh khắc nhau, đến lúc mệnh chung thì tùy theo hành nghiệp mà luân chuyển, lãnh tai ương hoặc hưởng phước.

11. Già phải khốn khổ, chết thì ý thức mất đi; đời sống tại gia khoái lạc chính là tù ngục trói buộc; tham lam của đời không biết chán, chẳng mấy chốc đã về già, hình sắc tàn tạ;

12. - lúc trẻ muốn gì làm nấy, nhưng già thì lọm khọm một chỗ; tuy thọ trăm tuổi, cũng bị thần chết tới dắt đi; bị cảnh già bức bách, bệnh tật hành hạ liên miên.

13. Cứ thế hết ngày này qua ngày nọ, thọ mệnh suy giảm, như cá bị thiếu nước, có gì là vui?

14. Già thì mặt mày khô héo, bị bệnh hủy hoại, hình hài hủ nát, thân mệnh đến thời phải dứt là điều không tránh được.[1]

15. Thân này có ích gì? Chỉ là thứ tích đầy dơ bẩn, bị bệnh làm cho khốn đốn, phải chịu cái nạn già và chết.

16. Theo thị dục dun dủi mà làm xằng, ngày càng tích nhiều điều trái lẽ, không thấy không hiểu được biến đổi vô cùng và thọ mệnh vô thường, con cái không nương nhờ được, cũng không có cha mẹ, anh em nào cứu vớt cho; bị thần chết xua đuổi thì không người thân thích nào cứu giúp được.

17. Ngày đêm khinh mạn và đọa lạc, già vẫn chưa thôi dâm dật, có của mà không bố thí, không nghe được lời Bụt, có bốn điều tệ ấy tức là dần dần tự dối bỏ mình.

18. Không phải bay vào không trung hay lặn sâu dưới biển, không phải trốn vào núi đá- không có chỗ nào thoát được tay thần chết.

19. Việc ấy là việc của ta, phải làm cho được như thế; người ta vì nghĩ như vậy mà bon chen, phiền nhiễu, vướng víu nhiều lo buồn trong dòng sinh tử.

20. Biết như vậy thì có thể làm cho mình thanh tịnh, có thể dứt được dòng sinh tử. Tỉ-khưu hãy biết tiêu diệt ma binh mà giải thoát khỏi cõi sinh tử.

1. 睡眠解寤,  宜歡喜思,  聽我所說, 撰記佛言。 

Thụy miên giải ngụ, nghi hoan hỉ tư, thính ngã sở thuyết, tuyển kí phật ngôn.

2. 所行非常,  謂興衰法, 夫生輒死,  此滅為樂。 

Sở hành phi thường, vị hưng suy pháp, phù sinh triếp tử, thử diệt vi lạc.

3. 譬如陶家, 埏埴作器,  一切要壞;  人命亦然。

Thí như đào gia, duyên thực tác khí, nhất thiết yếu hoại; nhân mệnh diệc nhiên.

4. 如河駛流,  往而不返;  人命如是, 逝者不還。 

Như hà sử lưu, vãng nhi bất phản; nhân mệnh như thị, thệ giả bất hoàn.

5. 譬人操杖,  行牧食牛; 老死猶然,  亦養命去。

Thí nhân thao trượng, hành mục tự ngưu; lão tử do nhiên, diệc dưỡng mệnh khứ. 

6. 千百非一, 族姓男女,  貯聚財產,  無不衰喪。

Thiên bách phi nhất, tộc tính nam nữ, trữ tụ tài sản, vô bất hoại táng.

7. 生者日夜,  命自攻削,  壽之消盡, 如熒穿水。

Sinh giả nhật dạ, mệnh tự công tước, thọ chi tiêu tận, như huỳnh xuyên thủy.

8-10. 常者皆盡、  高者亦墮、 合會有離、 生者有死,  眾生相剋,以喪其命,  隨行所墮,  自受殃福。

Thường giả giai tận, cao giả diệc đọa, hợp hội hữu li, sinh giả hữu tử, chúng sinh tương khắc, dĩ táng kì mệnh, tùy hành sở đọa, tự thụ ương phúc.

11-12. 老見苦痛,  死則意去;  樂家縛獄,

貪世不斷;  咄嗟老至,  色變作耄;

少時如意,  老見蹈藉;  雖壽百歲,

亦死過去;  為老所厭,  病條至際。

Lão kiến khổ thống, tử tắc ý khứ; lạc gia phược ngục, tham thế bất đoạn; đốt ta lão chí, sắc biến tác mại; thiểu thời như ý, lão kiến đạo tạ; tuy thọ bách tuế, diệc tử quá khứ; vi lão sở áp, bệnh điều chí tế.

13. 是日已過,  命則隨減,  如少水魚, 斯有何樂? 

Thị nhật dĩ quá, mệnh tắc tùy giảm, như thiểu thủy ngư, tư hữu hà lạc?

14. 老則色衰,  所病自壞,

形敗腐朽,  命終自然。 

Lão tắc sắc suy, sở bệnh tự hoại, hình bại hủ hủ, mệnh chung tự nhiên.

15. 是身何用? 恒漏臭處,  為病所困,  有老死患。

Thị thân hà dụng, hằng lậu xú xứ, vi bệnh sở khốn, hữu lão tử hoạn.

16.  嗜欲自恣,  非法是增,  不見聞變,

壽命無常,  非有子恃、  亦非父兄,

為死所迫,  無親可怙。 

Thị dục tự tứ, phi pháp thị tăng, bất kiến văn biến, thọ mệnh vô thường, phi hữu tử thị, diệc phi phụ huynh, vi tử sở bách, vô thân khả hỗ.

17. 晝夜慢惰、 老不止婬、  有財不施、  不受佛言,

有此四弊,  為自侵欺。

Trú dạ mạn đọa, lão bất chỉ dâm, hữu tài bất thí, bất thụ Phật ngôn, hữu thử tứ tệ, vi tự xâm khi.

18. 非空非海中、  非入山石間, 無有地方所,  脫之不受死。

Phi không phi hải trung, phi nhập sơn thạch gian, vô hữu địa phương sở, thoát chi bất thụ tử.

19. 是務是吾作,  當作令致是,

人為此躁擾,  履踐老死憂。

Thị vụ thị ngô tác, đương tác lệnh trí thị, nhân vi thử táo nhiễu, lí tiễn lão tử ưu.

20.  知此能自淨,  如是見生盡,

比丘厭魔兵,  從生死得度。

Tri thử năng tự tịnh, như thị kiến sinh tận, tỉ-khưu áp ma binh, tòng sinh tử đắc độ.



[1] Xem kệ 148

Comments

Popular Posts

21. Chuyện Người Con Gái Xinh Đẹp Của Vua Ba-tư-nặc

Truyện 21. Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 2.  Xưa vua Ba-tư-nặc có một người con gái tên là Thiện Quang, thông minh đoan chánh, cha mẹ thương yêu, toàn cung ái kính. Vua cha nói nàng, “Con nhờ sức cha mà được toàn cung ái kính.” Con gái đáp cha rằng, “Con có nghiệp lực, chứ không nhờ sức cha.” Hỏi như vậy ba lần đều đáp như trước. Lúc ấy vua tức giận nói rằng, “Nay ta muốn thử coi con có dựa vào nghiệp lực mình không. Không có cái gọi là nghiệp lực.” Ra lệnh cho tả hữu vô tìm khắp trong thành ấy một người ăn mày nghèo rốt. Quan lính theo lệnh vua đi tìm, được một người hạ tiện dắt về gặp vua. Vua liền lấy con gái Thiện Quang trao phó cho kẻ hạ tiện ấy. Vua nói con gái, “Nếu con có nghiệp lực riêng của mình chứ không nhờ vào ta, từ nay trở đi để nghiệm coi là biết.” Thiện Quang vẫn đáp, “Con có nghiệp lực.” Rồi cùng với cùng nhân dắt nhau ra đi. Hỏi chồng rằng, “Anh trước đây có cha mẹ không?” Cùng nhân đáp, “Cha tôi trước đây là đệ nhất trưởng giả trong thành Xá-vệ, cha mẹ trong nhà đều đã qu

74. Phật Kể Chuyện Ngày Trước Độ Các Ông A-nặc Kiều-trần-như

Truyện 74, Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 6  Phật ở thành Vương Xá thuyết pháp độ A Nặc Kiều Trần Như, Thích Đề Hoàn Nhân, và vua Tần Bà Sa La. Mấy ông ấy mỗi người dắt theo tám vạn bốn ngàn người, tất cả đều đắc đạo. Chư tì-khâu lấy làm lạ từng ấy người được dứt hẳn ba đường ác. Phật nói, “Chẳng những ngày nay thôi, trong đời quá khứ cũng đã từng tế bạt họ.”  Chư tì-khâu hỏi, “Chuyện tế bạt trong đời trước đó như thế nào?”  Phật kể, “Trong đời quá khứ có một đoàn người đi buôn, họ ra biển tìm báu vật, trên đường về tới một cách đồng lớn thì gặp mãng xà, mãng xà thân ngóc lên cao sáu câu-lâu-xá, vây quanh đoàn thương nhân, bốn phía đều phong tỏa không có lối thoát. Đoàn thương nhân trong bụng kinh hãi, ai nấy đều kêu lên, ‘Thiên thần địa thần có lòng từ bi xin cứu chúng tôi.’ Lúc ấy có voi trắng với sư tử đi tới, sư tử nhảy tới đánh dập đầu mãng xà, khiến cho đoàn thương nhân thoát đại nạn. Mãng xà kịp phun độc trong miệng thương hại sư tử và cả voi trắng. Lúc sư tử và voi trắng mạng sống vẫn

34. Quán Vô Thường Là Thuốc Trị Nhiều Bệnh

Dụ 34. Tạp Thí Dụ Kinh T0207 Thiên hạ thảo mộc đều làm thuốc được, chẳng qua do không sành sỏi nên không biết mà thôi. Xưa có thánh y vương tên là Kì-vực, năng hòa hợp dược thảo làm hình đồng tử, ai thấy cũng vui mừng, chúng bệnh đều khỏi. Hoặc lấy một loại cỏ trị chúng bệnh, hoặc lấy nhiều loại cỏ trị nhất bệnh, cỏ trong thiên hạ không loài nào không có chỗ dùng, bệnh trong thiên hạ không bệnh nào không trị được. Kì-vực mệnh chung, thiên hạ dược thảo cùng lúc khóc, đồng thanh, ‘Tôi dùng trị bệnh được, chỉ có Kì-vực mới biết rõ tôi mà thôi. Kì-vực chết rồi không có ai biết tôi nữa, người đời sau hoặc dùng sai, hoặc tăng hoặc giảm khiến bệnh không khỏi, làm cho người trên đời cho tôi không có thần hiệu, vì nghĩ như vậy mà khóc.’ Chỉ có một loài là ha-lê-lặc ở riêng một chỗ là không khóc, nó tự nhủ rằng, ‘Tôi trị được chúng bệnh, người nào uống tôi thì bệnh lành, không uống tôi thì không thể tự lành, không cần người ta phải biết mình nên không khóc.’  Kì-vực dụ cho Phật, chúng dược thảo

84. Người Cụt Tay Chân Cảm Ân Phật Mà Sinh Lên Cõi Trời

Truyện 84, Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 7  Xưa  nước Xá-vệ có người phạm vào vương pháp, bị chặt hết tay chân, vứt bỏ đầu đường. Phật đi đường nhìn thấy, tới bên hỏi, “Ngươi bây giờ khổ chi nhất?” Người cụt đáp, “Khổ nhất là đói.” Liền sai A-nan đem cơm cho. Người cụt mệnh chung sinh lên cõi trời, cảm ơn sâu dày của Phật, xuống cung dưỡng Phật, Phật thuyết pháp cho, đắc tu-đà-hoàn.  Tì-khâu hỏi Phật, “Nhờ nghiệp hạnh chi mà sinh lên cõi trời?” Phật kể, “Người ấy trước ở trong cõi người bị chặt tay chân, vứt bỏ ngoài đường. Phật tới bên, sai đồ đệ đưa cơm cho, người ấy lòng vui mừng, mệnh chung sinh lên cõi trời, lại xuống chỗ ta nghe pháp mà đắc đạo.”     Văn 刖手足人感念佛恩而得生天緣 昔舍衛國,有人犯於王法,截其手足,擲著道頭。佛行見之,即往到邊,而問言曰:「汝於今日,以何為苦?」刖人答言:「我最苦餓。」即勅阿難,使與彼食。其刖人命終生天,感佛厚恩,來下供養,佛為說法,得須陀洹。 比丘問言:「以何業行,生於天上?」 佛言:「昔在人中,被刖手足擲於道頭,佛到其所,勅與其食,心生歡喜,命終生天,重於我所,聞法得道。」 Âm. Ngoạt Thủ Túc Nhân Cảm Niệm Phật Ân Nhi Đắc Sinh Thiên Duyên Tích Xá-vệ quốc, hữu nhân phạm ư vương pháp, tiệt kì thủ túc, trịch trước đạo đầu. Phật hà