Skip to main content

54. Truyện Cưu Na La, Con Vua A Dục (phần 4, hết)

Về sau Cưu Na La cùng vợ rời khỏi Đức Xoa Thi La hướng cố quốc mà đi. Hai vợ chồng lớn lên trong phú quý, thậm chí chưa từng đi đường xa, làm sao kham được cái lụy đi đường gian nan? Hai người trên đường ăn sương ngủ gió, nhờ Cưu Na La giỏi đánh đàn, biết ca xướng và tấu nhạc nên đi đường dùng tài đó mà kiếm ăn, dần dần về được bổn quốc. Lúc tiến vào hoàng cung thì bị lính giữ cửa ngăn trở, đành phải đi ở trong chuồng ngựa. Quá nửa đêm, Cưu Na La đánh đàn mà hát, rằng: ‘Mắt của ta đã mất, nhưng đã thấy tứ đế.’ Lại nói kệ: ‘Người có trí tuệ, thấy được chân tướng sáu căn và sáu trần, lấy trí tuệ làm đèn soi thì có thể ra khỏi sinh tử. Cái khổ của chúng sinh hữu tình trong tam giới tất cả đều từ tâm mà ra, nay phải thấy cho rõ những lầm lạc của chúng sinh hữu tình trong tam giới. Muốn cầu cái vui lớn, thì phải quán niệm để thấy rõ châng tướng sáu căn và sáu trần.’ (*)
Vua A Dục nghe thấy thanh âm quen thuộc trong lòng rất đỗi vui mừng. Vua nói: ‘Hôm nay có người nói kệ, lại nghe tiếng đàn giống như là tiếng con ta Cưu Na La. Nếu đã về rồi sao ta còn chưa thấy?’ Vua bèn truyền cho cung nhân: ‘Âm thanh trong trẻo ấy nghe như tiếng của Cưu Na La, nhưng tại sao tiếng hát nghe buồn bã như vậy, nó khiến lòng ta nao nao không thôi, giống như voi mẹ mất con nghe được tiếng nó mà tâm sợ hãi không nguôi. Các ngươi đi xem có phải Cưu Na La trở về không? Nếu đúng là nó thì đưa vô ta gặp.’ Cung nhân vâng mệnh vua, tới chuồng ngựa dò xét cho rõ, chỉ thấy có người mù mắt và áo quần lam lũ, cho rằng chẳng phải Cưu Na La vương tử. Họ quay trở về bẩm vua rằng chỉ có người mù cùng vợ ở trong chuồng ngựa, chẳng phải Cưu Na La.
Vua A Dục nghe lời cung nhân xong buồn rầu nói: ‘Ngày trước ta mộng thấy Cưu Na La mù mắt, nay người mù ấy ắt là Cưu Na La. Các ngươi tới đó lần nữa, dắt người ấy về đây, ta nghĩ đó là con ta vì trong lòng thấy bất an.’ Cung nhân lại tới chuồng ngựa, hỏi: ‘Cha ngươi là ai? Ngươi tên gì?’ Cưu Na La đáp: ‘Cha tôi tên A Du Kha, dòng dõi Khổng Tước, toàn bờ cõi đều do ông ấy cai trị. Tôi là con ông ta, tên Cưu Na La, họ là Pháp Vương Phật, nay là pháp vương tử.’
Cung nhân nhanh chóng đưa Cưu Na La cùng vợ vào cung. Lúc vua A Dục nhìn thấy Cưu Na La, mặc áo rách rưới, nắng gió tần tảo, dung nhan biến đổi, thậm chí vua không nhận ra được vương tử ngày trước, nên trong lòng nghi hoặc. Vua hỏi: ‘Ngươi là Cưu Na La sao?’ Cưu Na La đáp: ‘Con đây.’
Vua A Dục đầu óc quay cuồng. Người xung quanh thấy nhà vua bi thống như vậy, cảm khái nói: ‘Nhà vua nhìn thấy Cưu Na La, có mặt mà không có mắt, bị khổ não thiêu đốt, từ trên ngai ngã xuống đất.’ Tạt nước cho tỉnh dậy rồi vua A Dục lên lại chỗ ngồi, xốc Cưu Na La lên ngồi trên chân mình, ôm lấy cổ con như ôm một đứa bé, khóc lóc sướt mướt. Vua vuốt đầu con, nhớ tới dung nhan ngày trước mà nói: ‘Đôi mắt đẹp của con nay đâu mất rồi? Vì sao mất mắt nói cho ta nghe? Con nay không còn mắt hệt như trời đêm không có mặt trăng, hình dung biến dị, việc này là ai gây ra? Dung mạo ngày trước của con giống như tiên nhân, ai mà không có lòng từ bi đã hủy hoại đôi mắt của con? Con ở đời có oán thù với ai? Ta khổ não cũng là ở đây mà ra, thân tướng con xinh đẹp như thế ai đã hủy hoại? Lửa tâm phiền muộn nay đốt thân ta, giống như sét dữ đánh trốc gốc cây. Sét phiền não cũng phá tâm ta như thế. Nhân duyên đó con phải nói ngay cho ta nghe.’
Cưu Na La đáp kệ: ‘Vương không nghe lời Phật nói sao, quả báo không thể thoát, dù là bích chi phật cũng không tránh thoát được. Tất cả phàm phu đều là do nghiệp tạo ra. Nghiệp duyên của thiện ác tới thời thì phải hứng lãnh. Mọi chúng sinh tự làm tự chịu lấy. Tôi vì biết duyên ấy nên sẽ không nói người hủy mắt tôi. Cái khổ này do tôi gây ra, chứ không có tác giả nào khác. Nhân duyên mất đôi mắt này không do người khác làm ra. Mọi cái khổ của chúng sinh đều là như thế. Đều do nghiệp tạo nên. Nhà vua nên biết như thế.’
Trong thời khắc bị lửa thống khổ thiêu tâm, vua A Dục nói: ‘Con mà nói ra kẻ đó là ai, thì ta không sinh tâm sân hận. Nếu không nói thì tâm ta điên loạn bất an.’ Vua A Dục nhớ từng để cho Vi Sa Lạc Khởi Đa làm vua bảy ngày, biết rằng việc này nhất định là bà ta gây ra, liền lập tức cho vời đến. Vua nói với bà ta: ‘Bà làm chuyện ác tày trời, sao còn chưa nằm xuống? Bà phạm vương pháp, gây tội đại nghịch với ta. Đã gây ác như vậy rồi thì ta nay truất phế bà, giống như người tu trừ bỏ việc chẳng lành.’
Vua A dục càng nghĩ càng nổi thịnh nộ, lửa hận thiêu tâm, muốn trừng trị Vi Sa Lạc Khởi Đa: ‘Ta hôm nay muốn móc mắt bà ra, muốn dùng cưa sắt mà phanh thây bà, muốn dùng rìu mà chặt thân bà, dùng dao cắt lưỡi, dùng dao cứa cổ, dùng lửa thiêu thân, cho bà uống thuốc độc để trừ mạng sống của bà đi.’ Cưu Na La nghe phụ vương muốn xử trị Vi Sa Lạc Khởi Đa thì lòng sinh bi mẫn, nói với quốc vương: ‘Bà đã gây nhiều ác nghiệp rồi, đại vương nay không cần giết bà làm gì. Trong mọi sức mạnh thì không sức mạnh nào hơn được nhẫn nhục. Thế tôn đã dạy như thế, sức của nhẫn nhục là mạnh nhất.’

Các tì khưu nghe chuyện trắc trở của Cưu Na La xong, tâm sinh nghi vấn, hỏi đại đức Ưu Ba Cấp Đa: ‘Cưu Na La đời quá khứ gây ra ác nghiệp gì mà đời nay chịu quả báo như thế?’ Đại đức đáp: ‘Trước đây nhiều kiếp, nước Ba La Nại có một người thợ săn hay vào Núi Tuyết giết hươu. Có một lần trên núi nổi sét đánh thình lình, lúc ấy có năm trăm con hươu vì sợ hãi nên vô trong hang đá ẩn náu, bị ngay người thợ săn bắt sạch. Thợ săn nghĩ bụng, nếu giết chết hết thì thịt sẽ hư thối, nên trong lòng sinh ác niệm: trước là móc hết mắt của bầy hươu, khiến nó không biết đường đi, mà cũng không chết, sau mới làm thịt dần dần. Cuối cùng thợ săn ra tay móc hết mắt của bầy hươu. Các vị tì khưu, người thợ săn kia chính là Cưu Na La hiện nay, do nghiệp ác trong quá khứ mà nhiều kiếp liên tiếp chịu khổ ở địa ngục; chịu xong quả báo địa ngục mới sinh lên thân người, nhưng trong năm trăm đời lại thường chịu cái nạn bị móc mắt. Đời này là đời cuối cùng ông ấy chịu quả báo đó.’
Các tì khưu lại hỏi: ‘Lại vì nhân duyên gì ông ấy sinh vào nhà quý tộc? Không chỉ hai mắt sáng đẹp mà sau còn chứng đắc quả vị La Hán?’ Đại đức đáp: ‘Trong quá khứ rất lâu, lúc ấy thọ mạng người lên tới bốn vạn năm, có một vị phật tên là Ca La Cưu Thôn Đại ra đời. Khi Như Lai đã độ thoát hết tất cả những ai nên độ thoát trên thế gian, những người chưa được độ thoát đều đã tạo nhân duyên đắc độ, thế duyên đã hết, nên phật ấy nhập vô dư niết bàn. Lúc ấy có một quốc vương tên là Trang Nghiêm, y cho Thế Tôn bốn bảo tháp. Sau khi quốc vương qua đời, vương đệ của ông ấy không tin Phật, nên lấy đi hết trân bảo trong bảo tháp, chỉ để lại khung nền làm bằng đất, gỗ. Dân chúng thấy bảo tháp bị hủy hoại, lòng sinh buồn rầu, oán phẫn.
Lúc ấy có một vị trưởng giả hỏi mọi người: ‘Vì sao các ông buồn bã như vậy?’ Mọi người đáp: ‘Tháp của Thế Tôn vốn bày tứ bảo, nay toàn bộ đều bị hủy tán, chúng tôi vì thế mà buồn rầu không dứt.’ Vị trưởng giả phát tâm dùng bốn món châu báu dựng lại bảo tháp, mà so với tháp nguyên bản còn uy nghi và trang nghiêm hơn nữa. Lại dựng tượng vàng Như Lai, đặt ở giữa tháp. Khi bảo tháp trùng tu xong, trưởng giả hết lòng phát nguyện: ‘Ca La Cưu Thôn Đại là đạo sư của thế gian, tôi nguyện đời sau sẽ ngộ kiến bậc đại giác thế tôn làm đạo sư của mình.’
Các vị tì-khưu nên biết, vị trưởng giả lúc ấy nay là Cưu Na La, nhờ duyên lành có lòng khôi phục bảo tháp của Ca La Cưu Thôn Đại Như Lai mà đời nay sinh vào dòng dõi quý tộc, lại nhờ nhân duyên dựng kim tượng của Như Lai mà đời nay hưởng quả báo thân tướng đoan nghiêm bậc nhất. Lại theo sở nguyện mà đời nay gặp được giáo pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, và khế ngộ tứ đế, chứng đắc thánh quả.
---
(*) Kệ văn: 若人有智慧,見十二入等,以智慧為燈,得解脫生死。三有中之苦,悉為自心苦,三有中之過,今應當知之,若欲求勝樂,當思十二入。Nhược nhân hữu trí tuệ, kiến thập nhị nhập đẳng, dĩ trí tuệ vi đăng, đắc giải thoát sinh tử. Tam hữu trung chi khổ, tất vi tự tâm khổ. Tam hữu trung chi quá, kim ứng đương tri chi, nhược dục cầu thắng lạc, đương tư thập nhị nhập.
 ---
Truyện trích trong ‘A Dục Vương Kinh, quyển bốn, phẩm thứ tư Cưu Na La Nhân Duyên’

Comments

Popular Posts

55. Xá-lợi-phất Đi Thăm Phật Duy-vệ

Dụ 55. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔佛遣舍利弗,西至維衛莊嚴剎土,問訊彼佛三事:「佛身安隱不?說法如常不?受者增進不?」舍利弗即承佛威神往詣彼剎,宣令如是。彼佛報言:「皆悉安隱。」於時彼佛轉阿惟越致輪,為七住菩薩說法,舍利弗聞之,從彼剎還,姿色光明行步勝常。佛告舍利弗:「汝到彼,何故侅步怡悅如是。」舍利弗白佛言:「譬如貧家飢凍之人得大珍寶如須彌山,寧歡喜不?」佛言:「甚善!」舍利弗言:「我到彼剎,得聞彼佛說阿惟越致深奧之事,是以欣踊不能自勝。」佛言:「善哉!如汝所言。」佛語舍利弗:「譬如長者大迦羅越,純以紫磨金、摩尼珠為寶,內有掃除銅鐵鉛錫 棄在於外糞壤之中,有貧匱者喜得持歸,言我大得迦羅越寶,寧是長者珍妙寶非?」答言:「非也。」佛語舍利弗:「汝所聞得,如是貧者,彼佛所說但十住事及在舉中清淨之者 ,汝所聞者不足言耳。」舍利弗即愁毒,如言我謂得寶,反是鉛錫。舍利弗說是事時,無央數人皆發無上平等度意,無央數人得阿惟顏住也。 Âm  Tích Phật khiển Xá-lợi-phất, tây chí Duy-vệ trang nghiêm sát thổ, vấn tấn bỉ Phật tam sự, ‘Phật thân an ẩn bất? Thuyết pháp như thường bất? Thụ giả tăng tiến bất?’ Xá-lợi-phất tức thừa Phật uy thần vãng nghệ bỉ sát, tuyên lệnh như thị. Bỉ Phật báo ngôn giai tất an ẩn. Ư thời bỉ Phật chuyển a-duy-việt-trí luân, vi thất trụ bồ-tát thuyết pháp, Xá-lợi-phất văn chi, tòng bỉ sát hoàn, tư sắc quang minh hành bộ thắng thường. Phật cáo Xá-lợi-phất, ‘Nhữ đáo bỉ, hà cố ? bộ di duyệt như thị?’ Xá-lợi-phất bạch Phật ngôn, ‘Thí như bần gia cơ đống chi nhân đắc đại trân...

41. Nhị Quỷ Tranh Bửu Bối (Bách Dụ Kinh)

Bách Dụ Kinh, Dụ thứ 41 Xưa có hai con quỷ đói chung nhau một cái rương nhỏ, một cây gậy và một chiếc guốc. Chúng nảy ra tranh chấp, con nào cũng muốn được ý mình, cãi cọ kịch liệt hết ngày mà không phân xử được. Lúc ấy có người đi tới thấy vậy hỏi, ‘Cái rương, cây gậy và chiếc guốc có chi kì dị mà chúng mày tranh chấp ghê vậy?’ Quỷ đáp, ‘Cái rương này của bọn tao có thể xuất ra đủ thứ, áo quần, ăn uống, giường đệm, ngọa cụ; hết thảy những thứ vật dụng hàng ngày đều từ nó mà ra. Cầm cây gậy này thì oán địch sẽ quy phục, không dám tranh với mình nữa. Mang chiếc guốc này thì có thể khiến người ta bay đi không quái ngại.’ Người ấy nghe thế liền bảo hai con quỷ, ‘Hai đứa bây tránh ra một chút, để tao chia đều cho.’ Bọn quỷ nghe nói vậy liền tránh ra xa. Người ấy ngay tức khắc ôm rương, chụp lấy gậy và xỏ guốc bay mất, hai con quỷ ngơ ngác, tranh nhau cuối cùng không được chi. Người kia nói với quỷ ‘Những thứ bọn bây tranh nhau ta lấy đi hết rồi, bây giờ không có chi phải tranh đoạt nhau nữ...

82. Phật Nói Cho Chúng Tì-khâu Biết Tai Hoạn Của Lợi Dưỡng

Truyện 82. Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 7  Lúc đó Như Lai ở nước Xá-vệ, chán lợi dưỡng. Có một khu rừng sâu tên là Tham Trang Nghiêm, Ngài tránh nạn lợi dưỡng nên đi vào rừng ấy. Trong rừng có chùa, có vị la-hán tên Na-dặc-ca làm tự chủ. Phật tới rừng ấy thì hôm sau nhiều người đem áo tới cúng dường, chật cả khu rừng. Phật nói: “Ta không dùng lợi dưỡng, nhưng lợi dưỡng thường theo ta.” Có một vạn hai ngàn tì-khâu cũng tới chỗ đó. Phật nói chư tì-khâu: “Lợi dưỡng là thứ đại tai hại, thường gây chướng nạn, tới cả la-hán cũng bị lợi dưỡng gây chướng nạn.” Tì-khâu hỏi: “Gây những chướng nạn chi?” Phật đáp: “Lợi dưỡng có những cái hại sau: phá bì, phá nhục, phá cốt, phá tuỷ. Phá như thế nào? Phá da trì giới, thịt thiền định, xương trí tuệ, và tủy thiện tâm vi diệu.” Chư tì-khâu một vạn hai ngàn người đều gom tam y lục vật hành a-luyện-nhã, không lấy thêm vật chi khác. Phật liền tán thán: “Thiện tai, thiện tai! Biết hành trì phép a-luyện-nhã. Phép này của ta là phép thiểu dục, chẳng phải đa d...

49. Vua Biết Đầu Mình Dơ Duốc

Dụ 13. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔有國王,行常過佛為作禮,不避泥雨。傍臣患之,自相與語:「王作意何以煩碎乃爾?」王耳聞之,王還宮勅臣下行求百獸頭及人頭一枚來。臣下白王言已具.王令於市賣之,皆售,人頭不售。臣下白言:「賣百獸頭皆售,此人頭臭爛初無買者。」王語傍臣:「汝曹不解耳祕。前者過佛所,為佛作禮,汝曹言:『王意煩碎。』欲知我頭者,如此死人頭,不潔淨,當以求福可得上天,汝曹愚癡不知,反言煩乎?」傍臣言:「實如大王所說。」叩頭謝過。臣等愚不及王。後復出,臣等皆下馬為佛作禮,以王為法也。 âm Tích hữu quốc vương, hành thường quá Phật vi tác lễ, bất tị nê vũ, bàng thần hoạn chi, tự tương dữ ngữ, vương tác ý hà dĩ phiền toái nãi nhĩ. Vương nhĩ văn chi, vương hoàn cung sắc thần hạ hành cầu bách thú đầu cập nhân đầu nhất mai lai. Thần hạ bạch vương ngôn dĩ cụ, vương lệnh ư thị mại chi. Giai thụ, nhân đầu bất thụ.’ Thần hạ bạch ngôn, ‘Mại bách thú đầu giai thụ, thử nhân đầu xú lạn sơ vô mãi giả.’ Vương ngữ bàng thần, ‘Nhữ tào bất giải nhĩ bí. Tiền giả quá Phật sở, vi Phật tác lễ, nhữ tào ngôn vương ý phiền toái. Dục tri ngã đầu giả như thử tử nhân đầu bất khiết tịnh, đương dĩ cầu phúc khả đắc thượng thiên, nhữ tào ngu si bất tri, phản ngôn phiền hồ?’ Bàng thần ngôn, ‘Thật như đại vương sở thuyết.’ Khấu đầu tạ quá, ‘thần ...