Chuyện bắt đầu ở Thành Xá-Vệ, có một người chăn trâu trẻ lạc mất một con, đi tìm khắp rừng mất nguyên buổi sáng, tới trưa mới tìm ra. Dắt trâu về nhập bầy xong, người chăn trâu khát cổ họng, bụng cồn cào nên tìm tới một tự viện trong rừng, đảnh lễ chư sư xong, ngồi ra một bên. Các tì-khưu thấy bộ dạng đói khát, nói với anh: ‘Chàng trai, trong thùng còn ít cơm rau, đi ăn đi!’.
Thời Phật, nhờ uy đức giáo hóa của Phật mà thí chủ thường bố thí Phật và chúng tì-khưu xuất gia, nhờ vậy mà chúng tì-khưu có đầy đủ gạo cơm, cà-ri, và đồ ăn các loại. Người chăn trâu trẻ tuổi kia hôm đó được một bữa no. Cơm xong chàng quay ra cảm ơn các tì-khưu rồi hỏi: ‘Các vị tôn giả hôm nay đi khất thực chỗ nào?’ ‘Đâu có đâu, ưu-bà-tắc, như mọi ngày thôi.’
Người chăn trâu nghĩ bụng: ‘Ta ngày đêm làm lụng mà chưa hề được đồ ăn ngon và nhiều như thế! Sống tại gia có chi hay chơ, chẳng bằng xuất gia!’ Nghĩ vậy bèn đem ý nguyện xuất gia trình các thầy. Các tì-khưu đáp: ‘Thiện tai, ưu-bà-tắc, hoan nghênh anh gia nhập tăng đoàn.’
Chàng trai trẻ mới xuất gia nên rất hăng hái, chấp sự của tăng đoàn giao cho không hề biếng nhác; lại vì thí chủ cung dưỡng Phật và chúng tì-khưu y thực rất phong hậu, nên chẳng bao lâu chàng phát phì ra.
Ít lâu sau chàng bắt đầu chán cảnh xuất gia, tâm tưởng: ‘Tại sao mình phải sống lối khất thực này? Hay là hoàn tục cho rồi!’ Nghĩ vậy bèn bỏ tăng đoàn mà về nhà. Ở nhà chưa được mấy ngày, vì thiếu đồ ăn nên hao gầy hẳn, lại nghĩ bụng: ‘Tạo sao mình phải chịu cái khổ đói khát này? Hay là xuất gia cho rồi!’ Thế là quay trở lại tăng đoàn. Lên chùa không được mấy hôm, cảm thấy tu hành không có ý tứ gì, lại hoàn tục. Về nhà mấy ngày thấy không thoải mái, lại nhớ cảnh xuất gia: ‘Ta làm sao làm được người tại gia? Phải xuất gia thôi.’ Lại trở về tăng đoàn, rồi lại hoàn tục. Đi về như thế mấy lần.
Lần thứ sáu chàng rời bỏ tăng đoàn để hoàn tục, thì chúng tì-khưu nhận ra chàng chỉ là người thích huyễn tưởng, không nắm bắt được tự tâm, tâm niệm tán dật, chủ ý tùy thời đổi mãi, vì đó họ gọi chàng là ‘Chất Đa Thủ tôn giả’.
Do chàng không ngừng xả giới hoàn tục nên vợ dính bầu. Một hôm, xong việc từ trong rừng đi ra, bỗng nhớ những điều hay khi xuất gia, bèn chạy về phòng ngủ lấy ca-sa, chuẩn bị lần thứ bảy xuất gia. Trong lúc chàng bước vô phòng ngủ thì thấy vợ đang nằm ngủ trên giường, áo quần giăng đầy sàn, miệng vợ ngoác ra như ếch, lại còn chảy nước dãi, tiếng ngáy, ui giời ơi, rầm rầm như sấm, chốc lát lại nghiến răng kèn kẹt. Nhìn xem, vợ đó mà nhìn khác chi một thây ma đang trương sình. Trong lòng Chất Đa Thủ tôn giả chấn động mãnh liệt: ‘Như vậy không phải là vô thường và khổ hay sao? Ta từng nhiều lần xuất gia, mà vì cô ta nên trước sau không an trụ được ở tăng đoàn, đúng là ngu si!’ Nghĩ vậy chàng cầm lấy ca-sa, quấn quanh bụng, dứt khoát xô cửa mà đi.
Mẹ vợ ở cách phòng thấy con rể ra đi vội vàng, trong lòng ngờ lạ, nghĩ: ‘Hắn mới ở trong rừng ra, tức thì lấy ca-sa mà đi, cuối cùng là có chuyện chi?’ Liền chạy qua phòng con gái, thấy dáng ngủ nằm phơi bày ra hết mọi thứ xú lậu, lờ mờ nhận ra ngọn ngành, bà kêu con gái: ‘Dậy mau! Con ham ăn ham ngủ! Thằng chồng mày thấy mày nằm ngủ xấu xí như thế, bỏ mày đi rồi! Không khéo chẳng ai vì mày mà về lại nữa!’
‘Mẹ, mẹ đừng có ồn nữa. Anh ta đi được bao lâu? Vài ngày nữa về chừ.’ Cơn buồn ngủ của cô gái vẫn còn nồng, cô đáp nửa mê nửa tỉnh.
Tôn giả Chất Đa Thủ trên đường đi đầu óc cứ lởn vởn dáng vợ nằm ngủ - vẻ kiều diễm ngày xưa không biết đã biến mất từ lúc nào? Chàng tư duy lui tới vô thường và khổ, cuối cùng đắc pháp nhãn tịnh, chứng quả tu-đà-hoàn. Lúc lên tới tăng đoàn, chư tì-khưu cùng nói: ‘Anh hết lần này tới lần khác cạo bỏ râu tóc, nhưng trước sau không trừ được những tạp nhiễm tham sân si trong tâm. Chúng tôi không thể tiếp thụ anh vào lại tăng đoàn, cái đầu anh không khác gì phiến đá mài dao, anh làm sao an trụ tăng đoàn, làm một tì-khưu xuất gia, viễn li trần cấu chân chính được?’
Chàng khẩn cầu: ‘Các vị tôn giả, xin từ bi nhận tôi thêm lần nữa!’ Các tì-khưu nhớ lại trước đây chàng hiệp trợ rất nhiều cho đại chúng, lại thấy khẩn thiết năn nỉ nên cuối cùng cho chàng một cơ hội. Mấy ngày sau, Chất Đa Thủ tôn giả không những chứng đắc quả A-la-hán, mà còn đầy đủ tứ vô ngại giải.
Có tì-khưu không biết tôn giả ấy đã giác ngộ nên giễu cợt: ‘Lần này lâu vậy rồi sao còn chưa về nhà? Nếu mà nhớ vợ thì về nhà đi.’ Tôn giả Chất Đa Thủ đáp: ‘Các vị tôn giả! Lúc tâm còn chấp trước thì tôi rời bỏ tăng đoàn, nhưng bây giờ tôi đã đoạn trừ mọi chấp trước, sẽ không rời bỏ nữa.’ Các vị tì-khưu đối với lời tôn giả Chất Đa Thủ nói còn bán tín bán nghi, nên đem hỏi Phật. Thế Tôn đáp: ‘Các vị tì-khưu, đúng là như thế. Các vị không nên hoài nghi. Lúc tâm không kiên định, chưa liễu giải pháp nghĩa chân chính, thì anh ta hay thay đổi, dùng dằng nếp sống xuất thế và nhập thế. Nhưng bây giờ anh ta đã siêu việt tất cả thị phi thiện ác, không còn có chấp trước hay sợ hãi nữa.’ Nhân đó Thế Tôn nói kệ:
「心若不安定,又不了正法,信心不堅者,智慧不成就。」
「若得無漏心,亦無諸惑亂,超越善與惡,覺者無恐怖。」
「Tâm nhược bất an định, hựu bất liễu chánh pháp, tín tâm bất kiên giả, trí tuệ bất thành tựu.」
「Nhược đắc vô lậu tâm, diệc vô chư hoặc loạn, siêu việt thiện dữ ác, giác giả vô khủng bố.」
‘Tâm nếu không an định thì không hiểu được chính pháp, người mà tâm không vững thì trí tuệ không thành tựu được. Đạt được vô lậu tâm, không còn các hoặc loạn, vượt lên trên thiện và ác, người giác ngộ như vậy không còn sợ hãi nữa.’
Mọi người trong hội chúng đều thấm nhuần pháp ích.
Truyện đọc được ở link sau.
http://www.greatperfection.org.hk/wisdomman/pdf/wisdomman09.pdf
質多手尊者的故事, trang 9-11
Comments
Post a Comment