Skip to main content

Rồng Đòi Ăn Tim Khỉ

Lúc ấy chư tì-khưu lại bạch Phật rằng: ‘Thật hi hữu Thế Tôn! Thật bất khả tư nghị. Ma vương Ba-tuần uy thế tự tại, thống trị dục giới, nhiều loài bị mê hoặc, vẫn không động được chỗ ngồi này của Phật.’ Chư tì-khưu nói vậy xong, Phật đáp: ‘Tì-khưu các ông nên biết, không phải hôm nay ma vương Ba-tuần mới dùng uy thế mê hoặc ta, quá khứ cũng như vậy, không lừa được ta.’ Lúc ấy chư tì-khưu liền bạch Phật rằng: ‘Thiện tai, Thế Tôn. Việc ấy như thế nào? Nguyện nói ra cho chúng tôi được rõ.’

Phật kể chư tì-khưu: ‘Ta nhớ rất xưa, trong biển lớn có con rồng lớn, vợ nó đang mang thai bỗng dưng thấy muốn ăn tim khỉ. Vì nhân duyên đó mà mẫu long gầy yếu, quằn quại, lo sợ bất an. Lúc ấy đại long thấy thân thể vợ gầy yếu, kém sắc hỏi: ‘Phu nhân, em đau chi? Muốn ăn chi? Ta không nghe em đòi đồ ăn, vì sao như thế?’ Mẫu long im lặng không nói. Chồng nó lại hỏi: ‘Em vì sao không nói?’ Vợ đáp chồng: ‘Anh nếu thỏa tâm nguyện em, em sẽ nói cho nghe, nhược bằng không em việc chi phải nói.’ Chồng đáp rằng: ‘Em nói ta nghe, nếu làm được ta sẽ tìm cách làm cho.’ Vợ liền nói: ‘Em nay thèm ăn tim khỉ, anh kiếm ra không?’ Chồng liền đáp: ‘Cái em thèm ăn đó, việc ấy thật khó. Vì sao như vậy? Anh ở trong biển lớn, khỉ ở cây, trên núi rừng, làm sao lấy được?’ Vợ nói: ‘Nói chi thì nói, em hôm nay muốn ăn tim khỉ, nếu không kiếm được, thai này ắt đọa, thân em cũng không sống được bao lâu.’ Lúc ấy đại long nói mẫu long: ‘Hiền thê, em nhẫn nại một chút, để anh tìm. Việc này nếu thành thì khó lấy lời nói được anh mừng cho em biết bao.’ 

Nói rồi đại long lập tức ra khỏi biển, đi lên bờ. Rời hải ngạn không xa có một cây lớn gọi là cây ưu-đàm-bà-la[1]. Trên cây ấy có một con khỉ to đang hái quả ăn. Đại long thấy khỉ ngồi trên cây ăn quả, từ từ đi tới dưới cây, thân thiết chào khỉ rồi lấy lời ngon ngọt hỏi thăm: ‘Thiện tai, thiện tai! Hiền giả[2] ơi, hiền giả ở trên cây làm chi đó? Có chịu khổ não nhiều không? Kiếm ăn dễ không, không phải lao khổ chơ?’ Khỉ đáp: ‘Đúng vậy, bạn lành! Tôi nay không phải chịu lắm khổ não.’ Đại long hỏi di hầu: ‘Bạn ở chỗ này ăn chi?’ Di hầu đáp: ‘Tôi ở trên này ăn quả cây ưu-đàm-bà-la.’ Đại long lại nói: ‘Hôm nay tôi gặp bạn hiền rất mừng, thấm nhuần thân thể, không nén lòng được, tôi muốn cùng trên đó kết làm bạn lành, cùng thương mến. Bạn hiền nghe lời tôi, thì sao phải ở đây? Nữa là cây này quả ít chứ không nhiều, sao có thể ở chỗ này cầu an lạc? Nếu bạn hiền xuống được đây đi theo tôi, tôi sẽ đưa anh vượt biển, bờ kia có riêng rừng lớn, trùng trùng cây trái, vô cùng phong nhiêu. Có các loại quả như am-bà, diêm-phù, lê-câu-đồ, pha-na-sa, trấn-đầu-già[3] nhiều không đếm xuể.’ Khỉ hỏi: ‘Tôi nay làm sao tới được chỗ ấy? Nước biển sâu lại rộng, khó vượt qua, tôi làm cách nào bơi qua được?’ Lúc ấy đại long đáp di hầu: ‘Tôi cõng anh qua bờ kia, chỉ cần anh trèo xuống đây cưỡi lên lưng tôi thôi.’

‘Lúc ấy khỉ tâm không an định, ngu si hẹp hòi, tri kiến thiển cận, nghe lời hoa mĩ của rồng thì sinh vui, trên cây trụt xuống bước lên lưng rồng để đi theo. Rồng trong bụng nghĩ như vầy: ‘Thiện tai, thiện tai. Ý nguyện của mình đã thành.’ Bèn dắt khỉ kia về chỗ ở của mình, rồng và khỉ đều lặn xuống nước. Lúc ấy khỉ hỏi rồng: ‘Bạn lành ơi, tại sao lặn xuống nước gấp vậy?’ Rồng liền đáp: ‘Anh chưa biết đó thôi.’ Khỉ hỏi: ‘Biết chuyện chi? Có chuyện chi?’ Rồng đáp: ‘Vợ tôi có bầu, nó muốn ăn tim anh, vì đó mà tôi dắt anh theo.’

‘Lúc ấy khỉ nghĩ như vậy: “Ư chà, không được hay ho lắm! Mình tự tìm tới chỗ chết! Bây giờ làm sao mau thoát ách nạn này bảo toàn thân mệnh?’ Tiếp đó nghĩ bụng: ‘Mình phải gạt rồng.’ Nghĩ vậy rồi nói với rồng: ‘Bạn hiền ơi, tim tôi để cất trên cây ưu-đàm-bà-la, không đem theo. Lúc ấy sao anh không y thật nói tôi biết anh cần tim tôi? Tôi lúc ấy theo anh đi cho mau! Chi bằng quay lại, thả tôi lên cây, lấy tim xong đi.’ Rồng kia nghe khỉ nói bèn quay đầu, cùng nổi lên mặt nước. Khỉ thấy rồng sắp lên tới bờ, lấy hết sức bình sinh nhảy thật nhanh khỏi lưng rồng, phóc lên cây ưu-đàm-bà-la. Rồng kia ở dưới chờ được một lúc, thấy khỉ trốn lâu không xuống, nói vọng lên: ‘Bạn thân ơi mau xuống, cùng tôi đi về nhà tôi.’ Khỉ im lặng nhất định không xuống. Rồng thấy khỉ lâu xuống bèn nói kệ rằng:

‘Di hầu bạn lành ơi, lấy tim trên cây xong mau xuống. Tôi đưa bạn sang rừng bên kia, nơi ấy tha hồ nhiều cây trái.’


善友獼猴得心已,       Thiện hữu di hầu đắc tâm dĩ,

願從樹上速下來,    Nguyện tòng thụ thượng tốc hạ lai,

我當送汝至彼林,       Ngã đương tống nhữ chí bỉ lâm,

多饒種種諸果處。    Đa nhiêu chủng chủng chư quả xứ. 

Lúc ấy khỉ tư duy như vầy: ‘Rồng này vô trí.’ Nghĩ vậy bèn hướng xuống nói kệ rằng:

             ‘Rồng kia tuy mưu cao nhưng tâm trí hẹp hòi. Chỉ cần người suy xét sẽ thấy, chúng sinh loài nào mà chẳng có tim. Rừng kia tuy cây trái phong nhiêu, cho là những quả hiếm như am-la thì lòng ta nay chẳng để ở đó. Thà ở đây ăn ưu-đàm-bà còn hơn.

汝虬計雖能       Nhữ cầu kế giảo tuy năng khoan,

而心智慮甚劣,    Nhi tâm trí lự thậm hiệp liệt,

汝但諦自思       Nhữ đãn thẩm đế tự tư thốn,

一切眾類誰無心?    Nhất thiết chúng loại thùy vô tâm?

彼林雖復子豐饒,       Bỉ lâm tuy phục tử phong nhiêu,

及諸菴羅等妙果,    Cập chư am la đẳng diệu quả,

我今意實不在彼,       Ngã kim ý thật bất tại bỉ,

寧自食此優曇婆。』  Ninh tự thực thử ưu-đàm-bà.

Lúc ấy Phật nói cho chư tì-khưu biết: ‘Tì-khưu các ông nên biết đại di hầu ấy chính là thân ta, còn đại long kia là Ma Ba-tuần. Lúc ấy mê hoặc ta còn không được, nay muốn dùng những món ngũ dục phóng túng của thế gian để dụ ta, há có thể động tới chỗ ngồi ta được sao?’

Kiều Lương dịch, 9.2021



[1] 優曇婆羅.Theo truyền thuyết Phật giáo, hoa cây này ba ngàn năm mới nở một lần, báo hiệu có kim luân vương hoặc pháp vương hạ sinh.

[2] 婆私師 /bà-tư-sư-trá/, phiên âm, danh từ cổ đại Ấn Độ dùng trỏ những Bà-la-môn đức cao vọng trọng

[3] 菴婆果, 閻浮果, 梨拘闍果, 頗那娑果, 鎮頭迦果 


Truyện chép trong Phật Bổn Hạnh Tập Kinh 佛本行集經, quyển thứ 31. 

https://cbetaonline.dila.edu.tw/zh/T03n0190_p0796b08

Comments

Popular Posts

55. Xá-lợi-phất Đi Thăm Phật Duy-vệ

Dụ 55. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔佛遣舍利弗,西至維衛莊嚴剎土,問訊彼佛三事:「佛身安隱不?說法如常不?受者增進不?」舍利弗即承佛威神往詣彼剎,宣令如是。彼佛報言:「皆悉安隱。」於時彼佛轉阿惟越致輪,為七住菩薩說法,舍利弗聞之,從彼剎還,姿色光明行步勝常。佛告舍利弗:「汝到彼,何故侅步怡悅如是。」舍利弗白佛言:「譬如貧家飢凍之人得大珍寶如須彌山,寧歡喜不?」佛言:「甚善!」舍利弗言:「我到彼剎,得聞彼佛說阿惟越致深奧之事,是以欣踊不能自勝。」佛言:「善哉!如汝所言。」佛語舍利弗:「譬如長者大迦羅越,純以紫磨金、摩尼珠為寶,內有掃除銅鐵鉛錫 棄在於外糞壤之中,有貧匱者喜得持歸,言我大得迦羅越寶,寧是長者珍妙寶非?」答言:「非也。」佛語舍利弗:「汝所聞得,如是貧者,彼佛所說但十住事及在舉中清淨之者 ,汝所聞者不足言耳。」舍利弗即愁毒,如言我謂得寶,反是鉛錫。舍利弗說是事時,無央數人皆發無上平等度意,無央數人得阿惟顏住也。 Âm  Tích Phật khiển Xá-lợi-phất, tây chí Duy-vệ trang nghiêm sát thổ, vấn tấn bỉ Phật tam sự, ‘Phật thân an ẩn bất? Thuyết pháp như thường bất? Thụ giả tăng tiến bất?’ Xá-lợi-phất tức thừa Phật uy thần vãng nghệ bỉ sát, tuyên lệnh như thị. Bỉ Phật báo ngôn giai tất an ẩn. Ư thời bỉ Phật chuyển a-duy-việt-trí luân, vi thất trụ bồ-tát thuyết pháp, Xá-lợi-phất văn chi, tòng bỉ sát hoàn, tư sắc quang minh hành bộ thắng thường. Phật cáo Xá-lợi-phất, ‘Nhữ đáo bỉ, hà cố ? bộ di duyệt như thị?’ Xá-lợi-phất bạch Phật ngôn, ‘Thí như bần gia cơ đống chi nhân đắc đại trân...

41. Nhị Quỷ Tranh Bửu Bối (Bách Dụ Kinh)

Bách Dụ Kinh, Dụ thứ 41 Xưa có hai con quỷ đói chung nhau một cái rương nhỏ, một cây gậy và một chiếc guốc. Chúng nảy ra tranh chấp, con nào cũng muốn được ý mình, cãi cọ kịch liệt hết ngày mà không phân xử được. Lúc ấy có người đi tới thấy vậy hỏi, ‘Cái rương, cây gậy và chiếc guốc có chi kì dị mà chúng mày tranh chấp ghê vậy?’ Quỷ đáp, ‘Cái rương này của bọn tao có thể xuất ra đủ thứ, áo quần, ăn uống, giường đệm, ngọa cụ; hết thảy những thứ vật dụng hàng ngày đều từ nó mà ra. Cầm cây gậy này thì oán địch sẽ quy phục, không dám tranh với mình nữa. Mang chiếc guốc này thì có thể khiến người ta bay đi không quái ngại.’ Người ấy nghe thế liền bảo hai con quỷ, ‘Hai đứa bây tránh ra một chút, để tao chia đều cho.’ Bọn quỷ nghe nói vậy liền tránh ra xa. Người ấy ngay tức khắc ôm rương, chụp lấy gậy và xỏ guốc bay mất, hai con quỷ ngơ ngác, tranh nhau cuối cùng không được chi. Người kia nói với quỷ ‘Những thứ bọn bây tranh nhau ta lấy đi hết rồi, bây giờ không có chi phải tranh đoạt nhau nữ...

82. Phật Nói Cho Chúng Tì-khâu Biết Tai Hoạn Của Lợi Dưỡng

Truyện 82. Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 7  Lúc đó Như Lai ở nước Xá-vệ, chán lợi dưỡng. Có một khu rừng sâu tên là Tham Trang Nghiêm, Ngài tránh nạn lợi dưỡng nên đi vào rừng ấy. Trong rừng có chùa, có vị la-hán tên Na-dặc-ca làm tự chủ. Phật tới rừng ấy thì hôm sau nhiều người đem áo tới cúng dường, chật cả khu rừng. Phật nói: “Ta không dùng lợi dưỡng, nhưng lợi dưỡng thường theo ta.” Có một vạn hai ngàn tì-khâu cũng tới chỗ đó. Phật nói chư tì-khâu: “Lợi dưỡng là thứ đại tai hại, thường gây chướng nạn, tới cả la-hán cũng bị lợi dưỡng gây chướng nạn.” Tì-khâu hỏi: “Gây những chướng nạn chi?” Phật đáp: “Lợi dưỡng có những cái hại sau: phá bì, phá nhục, phá cốt, phá tuỷ. Phá như thế nào? Phá da trì giới, thịt thiền định, xương trí tuệ, và tủy thiện tâm vi diệu.” Chư tì-khâu một vạn hai ngàn người đều gom tam y lục vật hành a-luyện-nhã, không lấy thêm vật chi khác. Phật liền tán thán: “Thiện tai, thiện tai! Biết hành trì phép a-luyện-nhã. Phép này của ta là phép thiểu dục, chẳng phải đa d...

49. Vua Biết Đầu Mình Dơ Duốc

Dụ 13. Cựu Tạp Thí Dụ Kinh văn 昔有國王,行常過佛為作禮,不避泥雨。傍臣患之,自相與語:「王作意何以煩碎乃爾?」王耳聞之,王還宮勅臣下行求百獸頭及人頭一枚來。臣下白王言已具.王令於市賣之,皆售,人頭不售。臣下白言:「賣百獸頭皆售,此人頭臭爛初無買者。」王語傍臣:「汝曹不解耳祕。前者過佛所,為佛作禮,汝曹言:『王意煩碎。』欲知我頭者,如此死人頭,不潔淨,當以求福可得上天,汝曹愚癡不知,反言煩乎?」傍臣言:「實如大王所說。」叩頭謝過。臣等愚不及王。後復出,臣等皆下馬為佛作禮,以王為法也。 âm Tích hữu quốc vương, hành thường quá Phật vi tác lễ, bất tị nê vũ, bàng thần hoạn chi, tự tương dữ ngữ, vương tác ý hà dĩ phiền toái nãi nhĩ. Vương nhĩ văn chi, vương hoàn cung sắc thần hạ hành cầu bách thú đầu cập nhân đầu nhất mai lai. Thần hạ bạch vương ngôn dĩ cụ, vương lệnh ư thị mại chi. Giai thụ, nhân đầu bất thụ.’ Thần hạ bạch ngôn, ‘Mại bách thú đầu giai thụ, thử nhân đầu xú lạn sơ vô mãi giả.’ Vương ngữ bàng thần, ‘Nhữ tào bất giải nhĩ bí. Tiền giả quá Phật sở, vi Phật tác lễ, nhữ tào ngôn vương ý phiền toái. Dục tri ngã đầu giả như thử tử nhân đầu bất khiết tịnh, đương dĩ cầu phúc khả đắc thượng thiên, nhữ tào ngu si bất tri, phản ngôn phiền hồ?’ Bàng thần ngôn, ‘Thật như đại vương sở thuyết.’ Khấu đầu tạ quá, ‘thần ...