Dụ 34. Tạp Thí Dụ Kinh T0207
Thiên hạ thảo mộc đều làm thuốc được, chẳng qua do không sành sỏi nên không biết mà thôi. Xưa có thánh y vương tên là Kì-vực, năng hòa hợp dược thảo làm hình đồng tử, ai thấy cũng vui mừng, chúng bệnh đều khỏi. Hoặc lấy một loại cỏ trị chúng bệnh, hoặc lấy nhiều loại cỏ trị nhất bệnh, cỏ trong thiên hạ không loài nào không có chỗ dùng, bệnh trong thiên hạ không bệnh nào không trị được. Kì-vực mệnh chung, thiên hạ dược thảo cùng lúc khóc, đồng thanh, ‘Tôi dùng trị bệnh được, chỉ có Kì-vực mới biết rõ tôi mà thôi. Kì-vực chết rồi không có ai biết tôi nữa, người đời sau hoặc dùng sai, hoặc tăng hoặc giảm khiến bệnh không khỏi, làm cho người trên đời cho tôi không có thần hiệu, vì nghĩ như vậy mà khóc.’ Chỉ có một loài là ha-lê-lặc ở riêng một chỗ là không khóc, nó tự nhủ rằng, ‘Tôi trị được chúng bệnh, người nào uống tôi thì bệnh lành, không uống tôi thì không thể tự lành, không cần người ta phải biết mình nên không khóc.’
Kì-vực dụ cho Phật, chúng dược thảo cho chư pháp, cỏ ha-lê-lặc dụ cho vô thường. Ngụ ý rằng lúc Phật còn tại thế người khéo dùng pháp năng, có thể lấy dâm nộ si làm thuốc trị bệnh cho người, còn tùy nghi sử dụng các thiện pháp khác. Phép quán vô thường dụ cho lương y trị chúng bệnh. Phật lìa thế gian rồi ít biết dùng chư pháp ứng thời tùy biến, duy có phép quán vô thường là trị được nhiều thứ bệnh, có thể trị dâm, trị sân hận, trị ngu si, người nào khéo dùng tất trừ được bệnh, người không khéo dùng cũng không bị thương, cho nên ví như cỏ ha-lê-lặc. Những pháp khác không dễ dùng, muốn dùng phải có thầy, khéo dùng thì khỏi bệnh, không khéo dùng thì tăng thêm bệnh.
Văn
天下草木皆可為藥,直不善別者故不知耳。昔有聖醫王名曰耆域,能和合藥草作童子形,見者歡喜眾病皆愈。或以一草治眾病,或以眾草治一病,天下之草無有不任用者,天下之病無有不能治者。耆域命終,天下藥草一時涕哭,俱發聲言:「我皆可用治病,唯有耆域能明我耳。耆域死後無復有人能明我者,後世人或能錯用,或增或減令病不差,令舉世人皆謂我不神,思惟此以故涕哭耳。」唯有一訶梨勒,別在一面獨不涕哭,自言:「我眾病皆能治,服我者病皆當差,不服我者自不差耳,不須人明,故不涕耳。」
耆域者喻如佛也,眾藥草者如諸法也,訶梨勒者如非常也。言佛在世時善用法能,即以婬怒癡為藥差人病也,及諸餘善法隨宜而用。無常軌已,喻病者良醫耳。佛去世後少有能善用諸法應時而變者也,非常觀者多所治也,亦能治婬亦能治恚亦能治癡,善用者則去病,不善用者無所傷,是故喻如訶梨勒也。其餘諸法不易用也,用之者宜必得其師,善用者則病損,不善用者則增病也。
Âm
Thiên hạ thảo mộc giai khả vi dược, trực bất thiện biệt giả cố bất tri nhĩ. Tích hữu thánh y vương danh viết Kì-vực, năng hòa hợp dược thảo tác đồng tử hình, kiến giả hoan hỉ chúng bệnh giai dũ. Hoặc dĩ nhất thảo trị chúng bệnh, hoặc dĩ chúng thảo trị nhất bệnh, thiên hạ chi thảo vô hữu bất nhâm dụng giả, thiên hạ chi bệnh vô hữu bất năng trị giả. Kì-vực mệnh chung, thiên hạ dược thảo nhất thì thế khốc, câu phát thanh ngôn, ‘Ngã giai khả dụng trì bệnh, duy hữu Kì-vực năng minh ngã nhĩ. Kì-vực tử hậu vô phục hữu nhân năng minh ngã giả, hậu thế nhân hoặc năng thác dụng, hoặc tăng hoặc giảm lệnh bệnh bất sái, lệnh cử thế nhân giai vị ngã bất thần, tư duy thử dĩ cố thế khốc nhĩ.’ Duy hữu nhất ha-lê-lặc, biệt tại nhất diện độc bất thế khốc, tự ngôn, ‘Ngã chúng bệnh giai năng trị, phục ngã giả bệnh giai đương sái, bất phục ngã giả tự bất sái nhĩ, bất tu nhân minh, cố bất thế nhĩ.’
Kì-vực giả dụ như Phật dã, chúng dược thảo giả như chư pháp dã, ha-lê-lặc giả như phi thường dã. ngôn Phật tại thế thì thiện dụng pháp năng, tức dĩ dâm nộ si vi dược sái nhân bệnh dã, cập chư dư thiện pháp tùy nghi nhi dụng. Vô thường quỹ dĩ, dụ bệnh giả lương y nhĩ. Phật khứ thế hậu thiểu hữu năng thiện dụng chư pháp ứng thì nhi biến giả dã, phi thường quan giả đa sở trì dã, diệc năng trì dâm diệc năng trì khuể diệc năng trì si, thiện dụng giả tắc khứ bệnh, bất thiện dụng giả vô sở thương, thị cố dụ như ha-lê-lặc dã. Kì dư chư pháp bất dị dụng dã, dụng chi giả nghi tất đắc kì sư, thiện dụng giả tắc bệnh tổn, bất thiện dụng giả tắc tăng bệnh dã.
雜譬喻經 T0207
Comments
Post a Comment