Skip to main content

Tín 信


Trong tiếng Việt có nhiều từ ngữ Hán Việt có chữ tín, như tín nhiệm, thành tín, trung tín, n tín, thư tín, tín ngưng, đều trỏ ý là như thật, đáng tin cậy.  Người lớn hay khuyên người trẻ làm gì cũng phải giữ chữ tín. Ngũ thường trong luân lí của Á Đông có đức tín.

Theo lối chiết tự thì ch tín gm b nhânvà ch ngôn. Nhân , tức là người; còn ngôn theo Ha Thn trong Thuyết Văn Gii T nghĩa là “trong lòng có gì thì nói nấy (“Trực ngôn viết ngôn). Người ta cũng nói Ngôn, tâm thanh dã” (Li là tiếng nói ca con tim). Vậy tín là có thành ý, không thay đi, tạo được sự tin cậy nơi người khác.

Nho sĩ rất coi trọng đức tín trong xử thế, đặt nó thành mt trong năm đc tt mà một người đạo đức phải có: nhân, nghĩa, l, trí, tín. Khổng Tử ví đức tín như cái đòn buộc trâu, buộc ngựa của chiếc xe, không có cái đòn đó làm sao mà đi được.
“Ngưi không có ch tín chng làm chi nên vic.”
人而無,不知其可也。
Nhân nhi vô tín, bt tri k kh dã.
(Luận Ngữ, Thiên II, bài 22, Nguyễn Hiến Lê dịch)[i]

Một môn đồ của Khổng Tử là Tăng Tử khuyên:
Đối với người già thì làm cho họ yên ổn; đối với bạn bè thì thành tín với họ.
, .
Lão giả an chi, bằng hữu tín chi.[ii]

Hàng ngày ông đều xét mình ba điều, và trong ba điều ấy có đức tín.
“Mỗi ngày ta xét ba điều: Làm việc cho ai có hết lòng khổng? Đối với bạn có vẹn chử tín thật không ? Đạo thầy truyền có học không?”
「吾日三省吾身:為人謀,而不忠乎?與朋友交,而不信乎?傳,不習乎?
Ngô nhật tam tỉnh ngô thân: Vi nhân mưu, nhi bất trung hồ? Dữ bằng hữu giao, nhi bất tín hồ? Truyền, bất tập hồ? (Luận Ngữ, Thiên I, bài 4)[iii]

Nhưng tín phải hợp với nghĩa, những việc sai quấy thì chớ nhúng tay vào vì có làm cho xong thì cũng gây oán chứ không gây sự tin tưởng trong lòng người. Mà việc nghĩa đã hứa rồi thì hãy làm.
“Nếu mình hứa điều gì mà hợp nghĩa, thì phải làm.”
信近於義,言可復也.
Tín cận ư nghĩa, ngôn khả phục dã.
(Luận Ngữ, Thiên I, bài 13)[iv]

Đức tín đã trọng với Nho sĩ muốn bôn ba để cứu đời, mà cũng trọng với phái Đạo sĩ ẩn dật trong hang núi để tu hành nữa. Đạo sĩ đặt Tín làm tảng đá dưới chân tường trong cuộc đời, đã mất hết đạo đức, mất hết nhân nghĩa rồi nhưng mà tín là đức cuối cùng không thể mất.
"Cái gi là l, là do thiếu trung tín, đây chính là nguyên nhân ca bo lon."
夫禮者, 忠信之薄, 而亂之首.
Phù Lễ giả, trung tín chi bạc, nhi loạn chi thủ. (Đạo Đức Kinh, chương 38)
Sau Lão Tử, Trang Tử cũng bàn về tín. Ông cho lòng người sâu hiểm, khó dò hơn sông núi; nhìn bề ngoài khó mà biết được thật chất bên trong. Cho nên muốn biết ai đó có tài thật hay chỉ là vô hạnh thì phải thử thách họ: sai họ đi xa để dò lòng trung, cho làm việc khó để coi họ có tài không; chuốc rượu cho say để xem họ có giữ được phép tắc không; cho họ chung chạ nam nữ để xem họ có háo sắc không. Trang Tử đưa ra chín điều như vậy để thử lòng người, và muốn biết người nào đó có đức tín không thì cho họ một kỳ hạn gấp rút.
 急與之期而觀其信
Cấp dữ chi kỳ nhi quan kỳ tín.
[Trang Tử, Liệt Ngự Khấu]
Và biết người ta có đức tín rồi thì không cần tới tiền của để thế chấp nữa.
“Chí lễ thì không kính trọng riêng ai; chí nghĩa thì không phân biệt sự vật; chí trí thì không mưu tính gì; chí nhân thì không tỏ ra thân thiết; chí tín thì không dùng kim tiền thế chấp.”
至禮有不人,至義不物,至知不謀,至仁無親,至信辟金。
Chí lễ hữu bất nhân, chí nghĩa bất vật, chí tri bất mưu, chí nhân vô thân, chí tín tịch kim.
[Trang Tử, Canh Tang Sở][v]

Đó là đức tín của người quân tử, người tầm thường muốn giữ giá trị đáng tin cậy của mình thì đừng coi cái gì cũng làm được, hứa lung tung với người ta để rồi cái gì cũng hóa ra khó khăn mà phải nuốt lời.
“Những kẻ hứa bừa bãi, sẽ khó giữ được lời. Coi cái gì cũng dễ, sẽ gặp nhiều cái khó.”
夫輕諾必寡信,多易必多難。
Phù khinh nặc tất quả tín. Đa dị tất đa nan.
(Đạo Đức Kinh, chương 63)[vi]

Ngoài kinh giáo do các bậc thầy ấy để lại, thì trong sách sử cũ cũng chép lại nhiều cố sự bàn về chữ tín. Nhân những cố sự đó mà có những thành ngữ như:
·  Nhân bt tín bt lp, nghĩa là ngưi không có tín thì không th đứng vững;
·  Tín vi quc chi bo, tức coi đức tín là bo bi ca quc gia; hay
·  Nht s bt tín, vn s bt tín, để chỉ người nói li ri li nut li, nói một đàng làm một nẻo.

Chúng tôi xin chép lại một vài cố sự như vậy để độc giả khỏi mất công tìm kiếm. Cổ Học Tinh Hoa của Ôn Như NGUYN VĂN NGCT An TRN LÊ NHÂN có chép hai truyện về chữ Tín như sau.[vii]

CÁI ĐNH

c L có mt cái đnh rt quí. Nưc T bt phi đem dâng. Vua L tiếc lm, cho làm mt cái đnh gi đưa sang.
Vua T bo: "Phi có Nhc Chính T[viii] đem đnh sang nói, thì ta mi tin".
Vua L cho gi Nhc Chính T đến, bo đi.
Nhc Chính T hi: "Sao không đưa cái đnh tht"?
Vua L nói: "Ta quí cái đnh y lm".
Nhc Chính T thưa: "Nhà vua quí cái đnh y thế nào, thì tôi quí cái đc "Tín" ca tôi như thế".
Sau vua L phi đưa đnh tht, Nhc Chính T mi chu đi.
(HÀN T)

THANH GƯƠM

Quí Trát là con vua nưc Ngô đi du lch các nưc. Khi qua nưc T vào thăm vua T. Vua T thy Quí Trát có thanh gươm báu, mun xin, mà chưa dám nói. Quí Trát trong bng cũng đnh cho, mà chưa dâng đưc, vì cuc du lch chưa xong. Khi c Tn v, thì vua T đã mt ri. Quí Trát không biết làm thế nào, đành phi đem thanh gươm đến treo ch gc cây bên m vua T, ri mi v.

(S Kí Tư Mã Thiên)




[i] Pasted from
[ii] Pasted from
[iii] Pasted from
[iv] Pasted from
[v] Pasted from
[vi] Pasted from
[vii] Pasted from
[viii] Nhc Chính T: Ngưi nưc L thi Xuân Thu, hc trò gii thy Tăng T. Chú của Ôn Như và Tử An.

Comments

Popular Posts

21. Chuyện Người Con Gái Xinh Đẹp Của Vua Ba-tư-nặc

Truyện 21. Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 2.  Xưa vua Ba-tư-nặc có một người con gái tên là Thiện Quang, thông minh đoan chánh, cha mẹ thương yêu, toàn cung ái kính. Vua cha nói nàng, “Con nhờ sức cha mà được toàn cung ái kính.” Con gái đáp cha rằng, “Con có nghiệp lực, chứ không nhờ sức cha.” Hỏi như vậy ba lần đều đáp như trước. Lúc ấy vua tức giận nói rằng, “Nay ta muốn thử coi con có dựa vào nghiệp lực mình không. Không có cái gọi là nghiệp lực.” Ra lệnh cho tả hữu vô tìm khắp trong thành ấy một người ăn mày nghèo rốt. Quan lính theo lệnh vua đi tìm, được một người hạ tiện dắt về gặp vua. Vua liền lấy con gái Thiện Quang trao phó cho kẻ hạ tiện ấy. Vua nói con gái, “Nếu con có nghiệp lực riêng của mình chứ không nhờ vào ta, từ nay trở đi để nghiệm coi là biết.” Thiện Quang vẫn đáp, “Con có nghiệp lực.” Rồi cùng với cùng nhân dắt nhau ra đi. Hỏi chồng rằng, “Anh trước đây có cha mẹ không?” Cùng nhân đáp, “Cha tôi trước đây là đệ nhất trưởng giả trong thành Xá-vệ, cha mẹ trong nhà đều đã qu

74. Phật Kể Chuyện Ngày Trước Độ Các Ông A-nặc Kiều-trần-như

Truyện 74, Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 6  Phật ở thành Vương Xá thuyết pháp độ A Nặc Kiều Trần Như, Thích Đề Hoàn Nhân, và vua Tần Bà Sa La. Mấy ông ấy mỗi người dắt theo tám vạn bốn ngàn người, tất cả đều đắc đạo. Chư tì-khâu lấy làm lạ từng ấy người được dứt hẳn ba đường ác. Phật nói, “Chẳng những ngày nay thôi, trong đời quá khứ cũng đã từng tế bạt họ.”  Chư tì-khâu hỏi, “Chuyện tế bạt trong đời trước đó như thế nào?”  Phật kể, “Trong đời quá khứ có một đoàn người đi buôn, họ ra biển tìm báu vật, trên đường về tới một cách đồng lớn thì gặp mãng xà, mãng xà thân ngóc lên cao sáu câu-lâu-xá, vây quanh đoàn thương nhân, bốn phía đều phong tỏa không có lối thoát. Đoàn thương nhân trong bụng kinh hãi, ai nấy đều kêu lên, ‘Thiên thần địa thần có lòng từ bi xin cứu chúng tôi.’ Lúc ấy có voi trắng với sư tử đi tới, sư tử nhảy tới đánh dập đầu mãng xà, khiến cho đoàn thương nhân thoát đại nạn. Mãng xà kịp phun độc trong miệng thương hại sư tử và cả voi trắng. Lúc sư tử và voi trắng mạng sống vẫn

34. Quán Vô Thường Là Thuốc Trị Nhiều Bệnh

Dụ 34. Tạp Thí Dụ Kinh T0207 Thiên hạ thảo mộc đều làm thuốc được, chẳng qua do không sành sỏi nên không biết mà thôi. Xưa có thánh y vương tên là Kì-vực, năng hòa hợp dược thảo làm hình đồng tử, ai thấy cũng vui mừng, chúng bệnh đều khỏi. Hoặc lấy một loại cỏ trị chúng bệnh, hoặc lấy nhiều loại cỏ trị nhất bệnh, cỏ trong thiên hạ không loài nào không có chỗ dùng, bệnh trong thiên hạ không bệnh nào không trị được. Kì-vực mệnh chung, thiên hạ dược thảo cùng lúc khóc, đồng thanh, ‘Tôi dùng trị bệnh được, chỉ có Kì-vực mới biết rõ tôi mà thôi. Kì-vực chết rồi không có ai biết tôi nữa, người đời sau hoặc dùng sai, hoặc tăng hoặc giảm khiến bệnh không khỏi, làm cho người trên đời cho tôi không có thần hiệu, vì nghĩ như vậy mà khóc.’ Chỉ có một loài là ha-lê-lặc ở riêng một chỗ là không khóc, nó tự nhủ rằng, ‘Tôi trị được chúng bệnh, người nào uống tôi thì bệnh lành, không uống tôi thì không thể tự lành, không cần người ta phải biết mình nên không khóc.’  Kì-vực dụ cho Phật, chúng dược thảo

84. Người Cụt Tay Chân Cảm Ân Phật Mà Sinh Lên Cõi Trời

Truyện 84, Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 7  Xưa  nước Xá-vệ có người phạm vào vương pháp, bị chặt hết tay chân, vứt bỏ đầu đường. Phật đi đường nhìn thấy, tới bên hỏi, “Ngươi bây giờ khổ chi nhất?” Người cụt đáp, “Khổ nhất là đói.” Liền sai A-nan đem cơm cho. Người cụt mệnh chung sinh lên cõi trời, cảm ơn sâu dày của Phật, xuống cung dưỡng Phật, Phật thuyết pháp cho, đắc tu-đà-hoàn.  Tì-khâu hỏi Phật, “Nhờ nghiệp hạnh chi mà sinh lên cõi trời?” Phật kể, “Người ấy trước ở trong cõi người bị chặt tay chân, vứt bỏ ngoài đường. Phật tới bên, sai đồ đệ đưa cơm cho, người ấy lòng vui mừng, mệnh chung sinh lên cõi trời, lại xuống chỗ ta nghe pháp mà đắc đạo.”     Văn 刖手足人感念佛恩而得生天緣 昔舍衛國,有人犯於王法,截其手足,擲著道頭。佛行見之,即往到邊,而問言曰:「汝於今日,以何為苦?」刖人答言:「我最苦餓。」即勅阿難,使與彼食。其刖人命終生天,感佛厚恩,來下供養,佛為說法,得須陀洹。 比丘問言:「以何業行,生於天上?」 佛言:「昔在人中,被刖手足擲於道頭,佛到其所,勅與其食,心生歡喜,命終生天,重於我所,聞法得道。」 Âm. Ngoạt Thủ Túc Nhân Cảm Niệm Phật Ân Nhi Đắc Sinh Thiên Duyên Tích Xá-vệ quốc, hữu nhân phạm ư vương pháp, tiệt kì thủ túc, trịch trước đạo đầu. Phật hà