Skip to main content

Hai điều tôi ghét nhất trong chữ Hán

Thứ nhất, là chữ giản thể. Chữ phồn thể có những quy tắc thành hình riêng, mà sang chữ giản thể thì mọi quy tắc đều mất hết, thành ra không phải chữ giản thể giúp cho người học dễ nhớ và nhớ lâu. Nó làm loạn trí nhớ người học thì đúng hơn. Một điểm nữa là nó xấu, nhìn chữ phồn thể thấy giống người đĩnh đạc, có đủ tứ chi, còn chữ phồn thể giống người què, không cụt tay thì cụt chân. Bởi vậy có ai chơi thư pháp mà viết chữ giản thể. Cái tệ nhất của chữ giản thể là nó làm vướng cuộc đời. Cộng sản Trung Quốc muốn tạo một thứ chữ dễ viết, dễ nhớ để phổ cập giáo dục. Chỉ có điều sách vở kinh điển đều chép bằng phồn thể, và người học muốn thành tài thâm sâu thì thường học tận gốc, họ sẽ học phồn thể, cũng như học văn ngôn văn chứ không chỉ dừng riêng ở bạch thoại. Chỉ những người hài lòng với học thức nông cạn mới dừng lại ở chữ giản thể. Cộng sản Trung Quốc muốn tạo dấu ấn trên lịch sử văn hóa Trung Hoa, nhưng mà động cơ của họ là động cơ quyền lực chứ không phải động cơ văn hóa; sản phẩm của họ không phải từ trí tuệ mà ra, nó từ sự áp đặt bạo lực, từ cuồng vọng mà ra. Chữ giản thể rồi cùng bị xóa bỏ, khi chế độ cộng sản này sụp.
Thứ hai, là lối phiên âm danh từ ngoại quốc của họ. Nước Nga phiên âm là Nga La Tư (俄羅斯), Argentina phiên âm là A Căn Đình, Cocacola: Khả Khẩu Khả Lạc (可口可樂), Google: Cốc Ca (谷歌). Những danh từ riêng của họ, như tên người, tên đất đặt trong câu nếu không có kiến thức, kinh nghiệm thì không nhận ra được, vì không có dấu hiệu, chẳng hạn như viết hoa lên như chữ cái Latin. Sao họ không để phiên âm Latin của những danh từ nước ngoài cho người học dễ nhận biết? Ở điểm này chữ Hán đã khó lại khó thêm, tôi ghét điều này là vì vậy. Có lẽ rồi cũng phải mất công làm quen với lối phiên âm này, như phải chịu khó học chữ giản thể vậy, nếu muốn gọi là thạo chữ Hán.

Tất nhiên, chữ Hán nó có những điểm dễ thương của nó. Như đối với người Việt, thì âm Hán-Việt nghe rất thanh tao, sang trọng; nó lại tinh xác. Dùng chữ Hán mà làm văn thì bài văn khoác lên vẻ long trọng và nghiêm túc, tất nhiên phải giỏi chữ Hán mới dùng chữ Hán-Việt được. Bạn nào chần chứ chưa quyết học chữ Hán thì sấn ngay vào đi, thập niên bất đáo - ngày xưa mấy cụ nói vậy vì thiếu sách, thiếu phương tiện. Ngày nay lên Internet tìm là có, hiềm cái không được chọn lọc, thành ra phải kiên nhẫn, mò mẫm rồi cũng vỡ ra hết. Không học chữ Hán thì chưa thể nói là hiểu được hết tiếng Việt. Người Việt mà không hiểu tiếng Việt thì có dám khoe mình văn minh không, như mấy người cộng sản cứ hễ mở miệng là Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến?

Comments

Popular Posts

21. Chuyện Người Con Gái Xinh Đẹp Của Vua Ba-tư-nặc

Truyện 21. Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 2.  Xưa vua Ba-tư-nặc có một người con gái tên là Thiện Quang, thông minh đoan chánh, cha mẹ thương yêu, toàn cung ái kính. Vua cha nói nàng, “Con nhờ sức cha mà được toàn cung ái kính.” Con gái đáp cha rằng, “Con có nghiệp lực, chứ không nhờ sức cha.” Hỏi như vậy ba lần đều đáp như trước. Lúc ấy vua tức giận nói rằng, “Nay ta muốn thử coi con có dựa vào nghiệp lực mình không. Không có cái gọi là nghiệp lực.” Ra lệnh cho tả hữu vô tìm khắp trong thành ấy một người ăn mày nghèo rốt. Quan lính theo lệnh vua đi tìm, được một người hạ tiện dắt về gặp vua. Vua liền lấy con gái Thiện Quang trao phó cho kẻ hạ tiện ấy. Vua nói con gái, “Nếu con có nghiệp lực riêng của mình chứ không nhờ vào ta, từ nay trở đi để nghiệm coi là biết.” Thiện Quang vẫn đáp, “Con có nghiệp lực.” Rồi cùng với cùng nhân dắt nhau ra đi. Hỏi chồng rằng, “Anh trước đây có cha mẹ không?” Cùng nhân đáp, “Cha tôi trước đây là đệ nhất trưởng giả trong thành Xá-vệ, cha mẹ trong nhà đều đã qu

74. Phật Kể Chuyện Ngày Trước Độ Các Ông A-nặc Kiều-trần-như

Truyện 74, Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 6  Phật ở thành Vương Xá thuyết pháp độ A Nặc Kiều Trần Như, Thích Đề Hoàn Nhân, và vua Tần Bà Sa La. Mấy ông ấy mỗi người dắt theo tám vạn bốn ngàn người, tất cả đều đắc đạo. Chư tì-khâu lấy làm lạ từng ấy người được dứt hẳn ba đường ác. Phật nói, “Chẳng những ngày nay thôi, trong đời quá khứ cũng đã từng tế bạt họ.”  Chư tì-khâu hỏi, “Chuyện tế bạt trong đời trước đó như thế nào?”  Phật kể, “Trong đời quá khứ có một đoàn người đi buôn, họ ra biển tìm báu vật, trên đường về tới một cách đồng lớn thì gặp mãng xà, mãng xà thân ngóc lên cao sáu câu-lâu-xá, vây quanh đoàn thương nhân, bốn phía đều phong tỏa không có lối thoát. Đoàn thương nhân trong bụng kinh hãi, ai nấy đều kêu lên, ‘Thiên thần địa thần có lòng từ bi xin cứu chúng tôi.’ Lúc ấy có voi trắng với sư tử đi tới, sư tử nhảy tới đánh dập đầu mãng xà, khiến cho đoàn thương nhân thoát đại nạn. Mãng xà kịp phun độc trong miệng thương hại sư tử và cả voi trắng. Lúc sư tử và voi trắng mạng sống vẫn

34. Quán Vô Thường Là Thuốc Trị Nhiều Bệnh

Dụ 34. Tạp Thí Dụ Kinh T0207 Thiên hạ thảo mộc đều làm thuốc được, chẳng qua do không sành sỏi nên không biết mà thôi. Xưa có thánh y vương tên là Kì-vực, năng hòa hợp dược thảo làm hình đồng tử, ai thấy cũng vui mừng, chúng bệnh đều khỏi. Hoặc lấy một loại cỏ trị chúng bệnh, hoặc lấy nhiều loại cỏ trị nhất bệnh, cỏ trong thiên hạ không loài nào không có chỗ dùng, bệnh trong thiên hạ không bệnh nào không trị được. Kì-vực mệnh chung, thiên hạ dược thảo cùng lúc khóc, đồng thanh, ‘Tôi dùng trị bệnh được, chỉ có Kì-vực mới biết rõ tôi mà thôi. Kì-vực chết rồi không có ai biết tôi nữa, người đời sau hoặc dùng sai, hoặc tăng hoặc giảm khiến bệnh không khỏi, làm cho người trên đời cho tôi không có thần hiệu, vì nghĩ như vậy mà khóc.’ Chỉ có một loài là ha-lê-lặc ở riêng một chỗ là không khóc, nó tự nhủ rằng, ‘Tôi trị được chúng bệnh, người nào uống tôi thì bệnh lành, không uống tôi thì không thể tự lành, không cần người ta phải biết mình nên không khóc.’  Kì-vực dụ cho Phật, chúng dược thảo

84. Người Cụt Tay Chân Cảm Ân Phật Mà Sinh Lên Cõi Trời

Truyện 84, Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 7  Xưa  nước Xá-vệ có người phạm vào vương pháp, bị chặt hết tay chân, vứt bỏ đầu đường. Phật đi đường nhìn thấy, tới bên hỏi, “Ngươi bây giờ khổ chi nhất?” Người cụt đáp, “Khổ nhất là đói.” Liền sai A-nan đem cơm cho. Người cụt mệnh chung sinh lên cõi trời, cảm ơn sâu dày của Phật, xuống cung dưỡng Phật, Phật thuyết pháp cho, đắc tu-đà-hoàn.  Tì-khâu hỏi Phật, “Nhờ nghiệp hạnh chi mà sinh lên cõi trời?” Phật kể, “Người ấy trước ở trong cõi người bị chặt tay chân, vứt bỏ ngoài đường. Phật tới bên, sai đồ đệ đưa cơm cho, người ấy lòng vui mừng, mệnh chung sinh lên cõi trời, lại xuống chỗ ta nghe pháp mà đắc đạo.”     Văn 刖手足人感念佛恩而得生天緣 昔舍衛國,有人犯於王法,截其手足,擲著道頭。佛行見之,即往到邊,而問言曰:「汝於今日,以何為苦?」刖人答言:「我最苦餓。」即勅阿難,使與彼食。其刖人命終生天,感佛厚恩,來下供養,佛為說法,得須陀洹。 比丘問言:「以何業行,生於天上?」 佛言:「昔在人中,被刖手足擲於道頭,佛到其所,勅與其食,心生歡喜,命終生天,重於我所,聞法得道。」 Âm. Ngoạt Thủ Túc Nhân Cảm Niệm Phật Ân Nhi Đắc Sinh Thiên Duyên Tích Xá-vệ quốc, hữu nhân phạm ư vương pháp, tiệt kì thủ túc, trịch trước đạo đầu. Phật hà