Skip to main content

19. Đáp Thuyền Mất Chén

Bách Dụ Kinh, Dụ thứ 19

Ngày xưa có người đáp thuyền đi biển, đánh rơi một cái chén bạc xuống biển, bèn nghĩ: ‘Chừ mình vạch nước làm dấu, để đó đi đã, sau lấy lại.’ Đi được hai tháng tới bổn quốc của tôn sư, thấy có con sông bèn lội xuống tìm cái chén mất hôm trước. Người ta hỏi: ‘Ông định làm chi?’ Đáp: ‘Tui bửaa trước mất cái chéng, chừ muốn tìm lại.’ 
- Mất mô?
- Mới xuống biển thì mất.
- Lâu chưa?
- Hơn hai tháng.
- Mất hơn hai tháng, răng tìm chỗ ni?
- Khi nớ rớt chéng, tôi có vạch nước làm dấu. Chỗ đánh dấu nớ với chỗ ni không khác nhau, cho nên tìm chỗ ni.
- Nước tuy không khác nhau, nhưng bửa trước ông mất chỗ nớ, chừ tìm chỗ ni, răng mà ra được?
Ai nghe chuyện cũng phá lên cười. 
Phường ngoại đạo cũng vậy, không theo chính pháp tu, lại theo những phép giả dối, bày nhiều kiểu khổ hạnh để cầu giải thoát. Họ như người ngu kia, mất chén chỗ này lại sang chỗ khác tìm.


乘船失釪喻

昔有人乘船渡海,失一銀釪*墮於水中,即便思念:「我今畫水作記,捨之而去後當取之。」行經二月到師子諸國,見一河水,便入其中覓本失釪。諸人問言:「欲何所作?」答言:「我先失釪今欲覓取。」問言:「於何處失?」答言:「初入海失。」又復問言:「失經幾時?」言:「失來二月。」問言:「失來二月,云何此覓?」答言:「我失釪時畫水作記,本所畫水與此無異,是故覓之。」又復問言:「水雖不別,汝昔失時乃在於彼,今在此覓何由可得?」爾時眾人無不大笑。亦如外道不修正行,相似善中橫計苦困,以求解脫,猶如愚人釪於彼而於此覓。

Thừa Thuyền Thất Vu Dụ

Tích hữu nhân thừa thuyền độ hải, thất nhất ngân vu* đọa ư thủy trung, tức tiện tư niệm: ‘Ngã kim họa thủy tác kí, xả chi nhi khứ hậu đương thủ chi.’ Hành kinh nhị nguyệt đáo sư tử chư quốc, kiến nhất hà thủy, tiện nhập kì trung mịch bổn thất vu.  Chư nhân vấn ngôn: ‘Dục hà sở tác?’ Đáp ngôn: ‘Ngã tiên thất vu kim dục mịch thủ.’ Vấn ngôn: ‘Ư hà xứ thất?” Đáp ngôn: ‘Sơ nhập hải thất.’ Hựu phục vấn ngôn: ‘Thất kinh cơ thời?’ Ngôn: ‘Thất lai nhị nguyệt.’ Vấn ngôn: ‘Thất lai nhị nguyệt, vân hà thử mịch?’ Đáp ngôn: ‘Ngã thất vu thời họa thủy tác kí, bổn sở họa thủy dữ thử vô dị, thị cố mịch chi.’ Hựu phục vấn ngôn: ‘Thủy tuy bất biệt, nhữ tích thất thời nãi tại ư bỉ, kim tại thử mịch hà do khả đắc?’ Nhĩ thời chúng nhân vô bất đại tiếu. Diệc như ngoại đạo bất tu chánh hạnh, tương tự thiện trung hoành kế khổ khốn dĩ cầu giải thoát, do như ngu nhân thất vu ư bỉ nhi ư thử mịch. 
* 釪=同盂

Bách Dụ Kinh 百喻經


Trong cổ văn có một chuyện tương tự: link.

Comments

Popular Posts

21. Chuyện Người Con Gái Xinh Đẹp Của Vua Ba-tư-nặc

Truyện 21. Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 2.  Xưa vua Ba-tư-nặc có một người con gái tên là Thiện Quang, thông minh đoan chánh, cha mẹ thương yêu, toàn cung ái kính. Vua cha nói nàng, “Con nhờ sức cha mà được toàn cung ái kính.” Con gái đáp cha rằng, “Con có nghiệp lực, chứ không nhờ sức cha.” Hỏi như vậy ba lần đều đáp như trước. Lúc ấy vua tức giận nói rằng, “Nay ta muốn thử coi con có dựa vào nghiệp lực mình không. Không có cái gọi là nghiệp lực.” Ra lệnh cho tả hữu vô tìm khắp trong thành ấy một người ăn mày nghèo rốt. Quan lính theo lệnh vua đi tìm, được một người hạ tiện dắt về gặp vua. Vua liền lấy con gái Thiện Quang trao phó cho kẻ hạ tiện ấy. Vua nói con gái, “Nếu con có nghiệp lực riêng của mình chứ không nhờ vào ta, từ nay trở đi để nghiệm coi là biết.” Thiện Quang vẫn đáp, “Con có nghiệp lực.” Rồi cùng với cùng nhân dắt nhau ra đi. Hỏi chồng rằng, “Anh trước đây có cha mẹ không?” Cùng nhân đáp, “Cha tôi trước đây là đệ nhất trưởng giả trong thành Xá-vệ, cha mẹ trong nhà đều đã qu

74. Phật Kể Chuyện Ngày Trước Độ Các Ông A-nặc Kiều-trần-như

Truyện 74, Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 6  Phật ở thành Vương Xá thuyết pháp độ A Nặc Kiều Trần Như, Thích Đề Hoàn Nhân, và vua Tần Bà Sa La. Mấy ông ấy mỗi người dắt theo tám vạn bốn ngàn người, tất cả đều đắc đạo. Chư tì-khâu lấy làm lạ từng ấy người được dứt hẳn ba đường ác. Phật nói, “Chẳng những ngày nay thôi, trong đời quá khứ cũng đã từng tế bạt họ.”  Chư tì-khâu hỏi, “Chuyện tế bạt trong đời trước đó như thế nào?”  Phật kể, “Trong đời quá khứ có một đoàn người đi buôn, họ ra biển tìm báu vật, trên đường về tới một cách đồng lớn thì gặp mãng xà, mãng xà thân ngóc lên cao sáu câu-lâu-xá, vây quanh đoàn thương nhân, bốn phía đều phong tỏa không có lối thoát. Đoàn thương nhân trong bụng kinh hãi, ai nấy đều kêu lên, ‘Thiên thần địa thần có lòng từ bi xin cứu chúng tôi.’ Lúc ấy có voi trắng với sư tử đi tới, sư tử nhảy tới đánh dập đầu mãng xà, khiến cho đoàn thương nhân thoát đại nạn. Mãng xà kịp phun độc trong miệng thương hại sư tử và cả voi trắng. Lúc sư tử và voi trắng mạng sống vẫn

34. Quán Vô Thường Là Thuốc Trị Nhiều Bệnh

Dụ 34. Tạp Thí Dụ Kinh T0207 Thiên hạ thảo mộc đều làm thuốc được, chẳng qua do không sành sỏi nên không biết mà thôi. Xưa có thánh y vương tên là Kì-vực, năng hòa hợp dược thảo làm hình đồng tử, ai thấy cũng vui mừng, chúng bệnh đều khỏi. Hoặc lấy một loại cỏ trị chúng bệnh, hoặc lấy nhiều loại cỏ trị nhất bệnh, cỏ trong thiên hạ không loài nào không có chỗ dùng, bệnh trong thiên hạ không bệnh nào không trị được. Kì-vực mệnh chung, thiên hạ dược thảo cùng lúc khóc, đồng thanh, ‘Tôi dùng trị bệnh được, chỉ có Kì-vực mới biết rõ tôi mà thôi. Kì-vực chết rồi không có ai biết tôi nữa, người đời sau hoặc dùng sai, hoặc tăng hoặc giảm khiến bệnh không khỏi, làm cho người trên đời cho tôi không có thần hiệu, vì nghĩ như vậy mà khóc.’ Chỉ có một loài là ha-lê-lặc ở riêng một chỗ là không khóc, nó tự nhủ rằng, ‘Tôi trị được chúng bệnh, người nào uống tôi thì bệnh lành, không uống tôi thì không thể tự lành, không cần người ta phải biết mình nên không khóc.’  Kì-vực dụ cho Phật, chúng dược thảo

84. Người Cụt Tay Chân Cảm Ân Phật Mà Sinh Lên Cõi Trời

Truyện 84, Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 7  Xưa  nước Xá-vệ có người phạm vào vương pháp, bị chặt hết tay chân, vứt bỏ đầu đường. Phật đi đường nhìn thấy, tới bên hỏi, “Ngươi bây giờ khổ chi nhất?” Người cụt đáp, “Khổ nhất là đói.” Liền sai A-nan đem cơm cho. Người cụt mệnh chung sinh lên cõi trời, cảm ơn sâu dày của Phật, xuống cung dưỡng Phật, Phật thuyết pháp cho, đắc tu-đà-hoàn.  Tì-khâu hỏi Phật, “Nhờ nghiệp hạnh chi mà sinh lên cõi trời?” Phật kể, “Người ấy trước ở trong cõi người bị chặt tay chân, vứt bỏ ngoài đường. Phật tới bên, sai đồ đệ đưa cơm cho, người ấy lòng vui mừng, mệnh chung sinh lên cõi trời, lại xuống chỗ ta nghe pháp mà đắc đạo.”     Văn 刖手足人感念佛恩而得生天緣 昔舍衛國,有人犯於王法,截其手足,擲著道頭。佛行見之,即往到邊,而問言曰:「汝於今日,以何為苦?」刖人答言:「我最苦餓。」即勅阿難,使與彼食。其刖人命終生天,感佛厚恩,來下供養,佛為說法,得須陀洹。 比丘問言:「以何業行,生於天上?」 佛言:「昔在人中,被刖手足擲於道頭,佛到其所,勅與其食,心生歡喜,命終生天,重於我所,聞法得道。」 Âm. Ngoạt Thủ Túc Nhân Cảm Niệm Phật Ân Nhi Đắc Sinh Thiên Duyên Tích Xá-vệ quốc, hữu nhân phạm ư vương pháp, tiệt kì thủ túc, trịch trước đạo đầu. Phật hà