Skip to main content

Tôi học chữ Hán

Không nhớ mình bắt đầu học chữ Hán chính xác từ lúc nào, có lẽ cách đây năm sáu năm. Nhưng mà học kiểu lãng tử, thích thì học, không thích thì vác guitar đi chơi, có khi cách cả nửa năm không đụng một chữ, có khi hai ba tuần liền ngày nào cũng hí hoáy viết. Học thì kĩ, nhưng mà không có hệ thống, thành ra hai ba năm học gần hết quyển 'Tự Học Hán Văn' của Nguyễn Khuê mà không đọc được sách. Bạch thoại không đọc được thì dĩ nhiên là văn ngôn là mù tịt. Không học ngữ pháp thì làm sao đọc được bạch thoại, mà văn ngôn không học cho hệ thống thì làm sao đọc được cổ văn. Kiểu học ấy chỉ có lợi là giữ được nhiệt tình thôi. Nhưng dù sao thì cũng có được cái vốn chữ Hán khoảng một ngàn trở lại. Không hơn chút gì.
Học mà nghiêm túc thì cách đây chắc khoảng ba năm, từ khi lập cái blog này. Cũng cuốn của Nguyễn Khuê, thêm Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu bản điện tử, rồi bắt đầu tập đọc bạch thoại. Vẫn kiểu học mò mẫm ấy, sách ngữ pháp có nhiều mà không chịu đọc, nhưng rồi cũng vỡ nghĩa dần dần, vốn từ tăng lên khoảng hai ngàn. Một năm sau bắt đầu dịch một tập ngụ ngôn Aesop bằng bạch thoại. Dịch rồi đăng lên blog này lần đầu cách đây gần hai năm, tháng Mười 2010. Nhưng mà chắc chắn chỉ dịch lấy ý thôi, còn ngữ pháp thì vẫn không thông được, dịch đúng là nhờ có đối chiếu với bản Anh văn.
Rồi lại học cổ văn, nhờ có mấy quyển của Trần Văn Chánh. Lê Anh Minh có viết một tập tự học chữ Hán tặng miễn phí trên Internet và mình học tập đó tới ba lần, giờ đang coi lại, vậy học tập đó kể phải có bốn lần. Cuốn đó giúp mình biết ngữ pháp văn ngôn cơ bản, dịch được Pháp Cú Kinh trong Đại Tạng Kinh, tất nhiên là phải dùng cả bạch thoại lẫn Anh ngữ để đối chiếu. Đọc cổ văn trong những cuốn khóa bản thì hiểu, vì có chú thích từ vị và ngữ pháp, chứ một mình đọc ngay một quyển như Sử Kí hay Chiến Quốc Sách thì chịu. Vì vậy phải học ngữ pháp văn ngôn và tập đọc nhiều nữa. Sách ngữ pháp và văn ngôn khóa bản thì sưu tầm nhiều rồi, đợi khi thông thạo bạch thoại sẽ quay trở lại.
Học chữ Hán thật là công phu, không kiên trì, không đam mê thì không sao học được. Sẽ trở lại đề tài này trong những entry sau, bàn về cách mình học bạch thoại, cái thích chữ phồn thể và ghét chữ giản thể, và dự định học văn ngôn văn.

Comments

  1. Bác cho hỏi nếu muốn học bạch thoại thì dùng tài liệu nào vậy? Cám ơn.

    ReplyDelete

Post a Comment

Popular Posts

21. Chuyện Người Con Gái Xinh Đẹp Của Vua Ba-tư-nặc

Truyện 21. Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 2.  Xưa vua Ba-tư-nặc có một người con gái tên là Thiện Quang, thông minh đoan chánh, cha mẹ thương yêu, toàn cung ái kính. Vua cha nói nàng, “Con nhờ sức cha mà được toàn cung ái kính.” Con gái đáp cha rằng, “Con có nghiệp lực, chứ không nhờ sức cha.” Hỏi như vậy ba lần đều đáp như trước. Lúc ấy vua tức giận nói rằng, “Nay ta muốn thử coi con có dựa vào nghiệp lực mình không. Không có cái gọi là nghiệp lực.” Ra lệnh cho tả hữu vô tìm khắp trong thành ấy một người ăn mày nghèo rốt. Quan lính theo lệnh vua đi tìm, được một người hạ tiện dắt về gặp vua. Vua liền lấy con gái Thiện Quang trao phó cho kẻ hạ tiện ấy. Vua nói con gái, “Nếu con có nghiệp lực riêng của mình chứ không nhờ vào ta, từ nay trở đi để nghiệm coi là biết.” Thiện Quang vẫn đáp, “Con có nghiệp lực.” Rồi cùng với cùng nhân dắt nhau ra đi. Hỏi chồng rằng, “Anh trước đây có cha mẹ không?” Cùng nhân đáp, “Cha tôi trước đây là đệ nhất trưởng giả trong thành Xá-vệ, cha mẹ trong nhà đều đã qu

74. Phật Kể Chuyện Ngày Trước Độ Các Ông A-nặc Kiều-trần-như

Truyện 74, Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 6  Phật ở thành Vương Xá thuyết pháp độ A Nặc Kiều Trần Như, Thích Đề Hoàn Nhân, và vua Tần Bà Sa La. Mấy ông ấy mỗi người dắt theo tám vạn bốn ngàn người, tất cả đều đắc đạo. Chư tì-khâu lấy làm lạ từng ấy người được dứt hẳn ba đường ác. Phật nói, “Chẳng những ngày nay thôi, trong đời quá khứ cũng đã từng tế bạt họ.”  Chư tì-khâu hỏi, “Chuyện tế bạt trong đời trước đó như thế nào?”  Phật kể, “Trong đời quá khứ có một đoàn người đi buôn, họ ra biển tìm báu vật, trên đường về tới một cách đồng lớn thì gặp mãng xà, mãng xà thân ngóc lên cao sáu câu-lâu-xá, vây quanh đoàn thương nhân, bốn phía đều phong tỏa không có lối thoát. Đoàn thương nhân trong bụng kinh hãi, ai nấy đều kêu lên, ‘Thiên thần địa thần có lòng từ bi xin cứu chúng tôi.’ Lúc ấy có voi trắng với sư tử đi tới, sư tử nhảy tới đánh dập đầu mãng xà, khiến cho đoàn thương nhân thoát đại nạn. Mãng xà kịp phun độc trong miệng thương hại sư tử và cả voi trắng. Lúc sư tử và voi trắng mạng sống vẫn

34. Quán Vô Thường Là Thuốc Trị Nhiều Bệnh

Dụ 34. Tạp Thí Dụ Kinh T0207 Thiên hạ thảo mộc đều làm thuốc được, chẳng qua do không sành sỏi nên không biết mà thôi. Xưa có thánh y vương tên là Kì-vực, năng hòa hợp dược thảo làm hình đồng tử, ai thấy cũng vui mừng, chúng bệnh đều khỏi. Hoặc lấy một loại cỏ trị chúng bệnh, hoặc lấy nhiều loại cỏ trị nhất bệnh, cỏ trong thiên hạ không loài nào không có chỗ dùng, bệnh trong thiên hạ không bệnh nào không trị được. Kì-vực mệnh chung, thiên hạ dược thảo cùng lúc khóc, đồng thanh, ‘Tôi dùng trị bệnh được, chỉ có Kì-vực mới biết rõ tôi mà thôi. Kì-vực chết rồi không có ai biết tôi nữa, người đời sau hoặc dùng sai, hoặc tăng hoặc giảm khiến bệnh không khỏi, làm cho người trên đời cho tôi không có thần hiệu, vì nghĩ như vậy mà khóc.’ Chỉ có một loài là ha-lê-lặc ở riêng một chỗ là không khóc, nó tự nhủ rằng, ‘Tôi trị được chúng bệnh, người nào uống tôi thì bệnh lành, không uống tôi thì không thể tự lành, không cần người ta phải biết mình nên không khóc.’  Kì-vực dụ cho Phật, chúng dược thảo

84. Người Cụt Tay Chân Cảm Ân Phật Mà Sinh Lên Cõi Trời

Truyện 84, Tạp Bảo Tạng Kinh Quyển 7  Xưa  nước Xá-vệ có người phạm vào vương pháp, bị chặt hết tay chân, vứt bỏ đầu đường. Phật đi đường nhìn thấy, tới bên hỏi, “Ngươi bây giờ khổ chi nhất?” Người cụt đáp, “Khổ nhất là đói.” Liền sai A-nan đem cơm cho. Người cụt mệnh chung sinh lên cõi trời, cảm ơn sâu dày của Phật, xuống cung dưỡng Phật, Phật thuyết pháp cho, đắc tu-đà-hoàn.  Tì-khâu hỏi Phật, “Nhờ nghiệp hạnh chi mà sinh lên cõi trời?” Phật kể, “Người ấy trước ở trong cõi người bị chặt tay chân, vứt bỏ ngoài đường. Phật tới bên, sai đồ đệ đưa cơm cho, người ấy lòng vui mừng, mệnh chung sinh lên cõi trời, lại xuống chỗ ta nghe pháp mà đắc đạo.”     Văn 刖手足人感念佛恩而得生天緣 昔舍衛國,有人犯於王法,截其手足,擲著道頭。佛行見之,即往到邊,而問言曰:「汝於今日,以何為苦?」刖人答言:「我最苦餓。」即勅阿難,使與彼食。其刖人命終生天,感佛厚恩,來下供養,佛為說法,得須陀洹。 比丘問言:「以何業行,生於天上?」 佛言:「昔在人中,被刖手足擲於道頭,佛到其所,勅與其食,心生歡喜,命終生天,重於我所,聞法得道。」 Âm. Ngoạt Thủ Túc Nhân Cảm Niệm Phật Ân Nhi Đắc Sinh Thiên Duyên Tích Xá-vệ quốc, hữu nhân phạm ư vương pháp, tiệt kì thủ túc, trịch trước đạo đầu. Phật hà